cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

03/2012/HC-ST Sơ thẩm Hành chính

  • 1454
  • 43

Khiếu kiện quyết định hành chính về việc thu hồi và hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

23-05-2012
TAND cấp huyện

Tại đơn khởi kiện và được bổ sung tại phiên tòa, ông NĐ_Phạm Văn Tuấn và bà NĐ_Nguyễn Thị Ngọc trình bày: Vào năm 1995, chúng tôi được Ủy ban nhân dân thị xã CM (nay là thành phố CM) cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, phần đất tọa lạc tại ấp Tân Trung, xã HT, thành phố CM, có diện tích 2.740m2, nguồn gốc do mẹ tôi là bà Nguyễn Thị Hai cho tặng. Do hoàn cảnh khó khăn của gia đình, chúng tôi phải đi làm ăn xa không người quản lý đất, đến năm 2006 khi trở về, chúng tôi phát hiện Ủy ban nhân dân xã HT đã tự ý chiếm dụng và phân lô cho thuê. Chúng tôi đã gửi đơn yêu cầu chính quyền địa phương giải quyết trả lại. Ông Trần Hòa Xuân là BĐ_chủ tịch Ủy ban nhân dân đã dựng lên việc tranh chấp đất này giữa ông và ông Phạm Văn No. Qua 2 cấp Tòa án xét xử, bằng Bản án dân sự phúc thẩm số 201/2006/PTDS ngày 18/05/2006 Tòa án nhân dân tỉnh CM đã tuyên xử buộc phải trả lại tôi hiện trạng phần đất đã nêu trên. Khi bản án có hiệu lực pháp luật tôi đã gửi đơn với đầy đủ thủ tục hợp lệ để yêu cầu thi hành án. Bằng Quyết định số 1784/QĐ-THA của cơ quan thi hành án dân sự thành phố CM tuy nhiên từ đó đến nay bản án vẫn không được thi hành do quyết định sai trái do ông Hứa Minh Hữu ký ban hành có nội dung thu hồi quyền sử dụng phần đất nêu trên của tôi mà không có lý do chính đáng.


836/2010/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1108
  • 32

Ly hôn

20-12-2010

NHẬN THẤY: Theo đơn xin ly hôn ngày 05/11/2008 chị Nguyễn Thị Thanh Trà trình bày: chị và anh Ngà tự nguyện yêu thương và cùng chung sống với nhau, có đăng ký kết hôn ngày 24/10/2000 tại UBND xã Giang Điền, huyện TB. Quá trình chung sống, anh Ngà không quan tâm chăm sóc đến vợ con, sống thiếu trách nhiệm với gia đình và còn có quan hệ ngoại tình với người phụ nữ khác. Nay chị không còn tình cảm gì với anh Ngà. Vợ chồng không còn quan tâm chăm sóc lẫn nhau và sống ly thân từ tháng 8/2008 cho đến nay, nên chị yêu cầu Toà án giải quyết ly hôn. Về con chung: chị yêu cầu được nuôi cả hai con chung là cháu Phạm Duy Phúc sinh ngày 27/9/2002 bị bệnh bại não và cháu Phạm Thanh Vy sinh ngày 16/6/2008. Chị yêu cầu anh Ngà cấp dưỡng cho cháu Phúc mỗi tháng 1.500.000đ cấp dưỡng đến suốt đời và cấp dưỡng cho cháu Vy mỗi tháng 1.000.000đ cho đến khi cháy Vy đến 18 tuổi.


798/2010/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1168
  • 31

Tranh chấp hợp đồng vay tài sản

15-12-2010

Theo đơn khởi kiện ngày 07/3/2008 và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Trần Thị Thủy trình bày: vào ngày 01/5/2006 bà Nguyên có vay của bà số tiền 300.000.000 đồng, lãi suất là 1,5% một tháng. Bà Nguyên có làm biên nhận nợ và có thế chấp 02 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AD716199 và AD967680 mang tên Nguyễn Quốc Việt. Ngày 18/12/2006 do chưa trả nợ nên bà Nguyên viết một giấy cam kết hẹn ngày 17/01/2007 sẽ trả hết nợ và lãi cho bà. Nhưng đến nay bà Nguyên không thực hiện cam kết trả nợ nên bà yêu cầu bà Nguyên cùng ông Việt liên đới trả số tiền 300.000.000đ vốn và tiền lãi tính theo quy định của pháp luật là 72.967.000đ.


564/2010/DS-GDT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 356
  • 10

Ly hôn

26-08-2010

Tại đơn xin ly hôn đề ngày 25/7/2006 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là chị Đỗ Kim Hoàn trình bày: Chị và anh,Trần Viết Quang kết hôn ngày 24/01/1997, có đăng ký tại ủy ban nhân dân phường MK do tự nguyện, quá trình chung sống hạnh phúc được gần 10 năm, sau đó phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân là do khi lấy anh Quang thì anh Quang đã có vợ và có các con với vợ trước (vợ trước của anh Quang đã chết), do việc dạy bảo các con của anh Quang không có sự thống nhất giữa chị và anh Quang, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng nên chị xin được ly hôn.


32/2010/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1309
  • 27

Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất

16-08-2010

Ngày 20/11/2003, cụ Tiềm lập di chúc (có công chứng chứng thực) cho ông BĐ_Tín lô đất thứ nhất. Ngày 03/12/2003, cụ Tiềm chết. Bà NĐ_Trinh và bà NĐ_Duyên khởi kiện cho rằng trong lô đất thứ nhất thì tài sản chung của cụ Phúc, cụ Tiềm chỉ là 400m2, diện tích đất còn lại là do các ông, bà cùng cụ Tiềm khai phá, lấn rộng ra xung quanh, vì vậy, việc cụ Tiềm lập di chúc cho ông BĐ_Tín lô đất này là không đúng; hơn nữa khi lập di chúc cụ Tiềm bị điếc và lú lẫn, nên đi chúc này không hợp pháp. Đối với lô đất thứ 2, ông BĐ_Tín tự ý kê khai đứng tên là không đúng. Do đó, đề nghị Tòa án chia thừa kế cả hai lô đất trên theo quy định của pháp luật; đối với diện tích đất cụ Tiềm, ông BĐ_Tín đã chuyển nhượng cho ông LQ_Bùi Văn Khang thì yêu cầu ông LQ_Bùi Văn Khang trả lại, ông BĐ_Tín có trách nhiệm trả lại tiền cho ông LQ_Khang.