193/2008/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 2091
- 44
Bà NĐ_Trương Thị Linh và ông NĐ_Lê Văn Ên trình bày: nguồn gốc phần đất vợ chồng bà đang quản lý sử dụng là do vợ chồng bà mua lại từ năm 1990, trên đất có 1 căn nhà bằng cây. Đến ngày 6-4- 2006, Ủy ban nhân dân huyện AP cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H0084/Q1 cho vợ chồng bà với diện tích 80,9m2. Cũng trong năm 2006, bà cất lại nhà cấp 4 bằng bêtông kiên cố, còn nhà đất của ông BĐ_Chân, bà BĐ_Son có trước khi bà tới đây sinh sống, giáp ranh liền kề với nhà đất của bà, giữa hai ranh đất có 1 cây dừa. Vào năm 2005, vợ chồng ông BĐ_Chân, bà BĐ_Son có hỏi bà đốn cây dừa để xây dựng nhà thành nhà một trệt, một lầu (phần lầu băng cây). Sau khi xây dựng nhà xong, thì vợ chồng ông BĐ_Chân tiếp tục lắp đặt 1 giàn phơi quần áo và 1 giàn nóng của máy lạnh, khi đó bà có ngăn cản nhưng ông BĐ_Chân vẫn tiếp tục xây dựng, chính vì vậy đã chiếm khoảng không gian nằm trên đất của vợ chồng bà đã được cấp giấy đỏ, làm cho bà không thể sử dụng khoảng không bên trên.
798/2010/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1336
- 31
Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Theo đơn khởi kiện ngày 07/3/2008 và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Trần Thị Thủy trình bày: vào ngày 01/5/2006 bà Nguyên có vay của bà số tiền 300.000.000 đồng, lãi suất là 1,5% một tháng. Bà Nguyên có làm biên nhận nợ và có thế chấp 02 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AD716199 và AD967680 mang tên Nguyễn Quốc Việt. Ngày 18/12/2006 do chưa trả nợ nên bà Nguyên viết một giấy cam kết hẹn ngày 17/01/2007 sẽ trả hết nợ và lãi cho bà. Nhưng đến nay bà Nguyên không thực hiện cam kết trả nợ nên bà yêu cầu bà Nguyên cùng ông Việt liên đới trả số tiền 300.000.000đ vốn và tiền lãi tính theo quy định của pháp luật là 72.967.000đ.
69/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 632
- 15
Tranh chấp quyền chiếm hữu và sử dụng tài sản
Cụ Mạch Bững và cụ Nguyễn Thị Huỳnh có 13 người con, nhưng 5 người đã chết (khi còn nhỏ), còn lại 8 người là: bà LQ_Mạch Thị Bảo (đang ở Canada), bà LQ_Mạch Thị Thu Ca, ông BĐ_Mạch Văn Bình, ông LQ_Mạch Văn Tân (ở Hoa Kỳ), bà LQ_Mạch Thị Châu, ông LQ_Mạch Văn Minh, ông và bà LQ_Mạch Thị Thanh. Về tài sản: Hai cụ có căn nhà 80m2 (4m x 20m) trên phần đất tại khóm 1, thị trấn CL, huyện CL, tỉnh TV. Năm 1982 cụ Bững chết không để lại di chúc. Trước giải phóng năm 1975, ông BĐ_Bình lập gia đình và ở tại Bến Tre. Sau giải phóng, vợ chồng ông BĐ_Bình và con là anh BĐ_Mạch Thiên Kiên về ở chung nhà với hai cụ. Năm 1983, cụ Huỳnh kê khai đất theo Chỉ thị 299/TTg.
44/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 352
- 4
Cố Giản và cố Kiên chết để lại di sản gồm một căn nhà từ đường cấp 4 (diện tích 75m2) trên lô đất thổ diện tích sau khi mở đường còn 1.043,8m2 thuộc thửa 550 và 551 tọa lạc tại thôn Phú Thạnh, xã VT, thành phố NT hiện do ông BĐ_Vinh quản lý nhà và phần lớn đất (cụ LQ_Mai và ông LQ_Ninh làm nhà trên một phần đất cùng trong khuôn viên) và một lô đất màu dùng làm nghĩa địa diện tích 1.384m2 thuộc thửa 439 và 440 cũng tại thôn Phú Thạnh, hiện do ông BĐ_Vinh quản lý toàn bộ.
107/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 639
- 8
Theo khởi kiện và lời khai của ông NĐ_Diệp Bạc Thuyền do chị Diệp Thị Thanh Thủy được ủy quyền trình bày: Năm 1939 cụ Diệp Minh Lý và Lý Thị Siêu Há có cho cụ Trần Têm mượn một phần đất để cất nhà ở khoảng 70m2. Khi cụ Têm qua đời thì có hai người con của cụ Têm là ông BĐ_Trần Thông bà BĐ_Trần Thị Tiến sử dụng, nhưng cho đến nay diện tích đất có thay đổi, cụ thể là bà BĐ_Trần Thị Tiến đang ở căn nhà 97/1 THĐ và sử dụng 486m2 đất, còn ông BĐ_Trần Thông ở căn nhà số 97/2 THĐ và sử dụng 455m2. Tổng diện tích là 941m2 năm trong thửa số 1078 có diện tích 1855m2 ông NĐ_Thuyền đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Ủy ban nhân dân huyện MX cấp năm 1993.