05/2014/ HC-ST Sơ thẩm Hành chính
- 963
- 21
Khởi kiện quyết định hành chính về bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng và cưỡng chế thu hồi đất
Người khởi kiện ông NĐ_Nguyễn Văn Bội, bà NĐ_Bùi Thị Huệ có ông NĐ_Bội làm đại diện trình bày: Gia đình ông đã cư trú tại phường TML, Quận X từ rất lâu. Năm 2010 ông được mời hiệp thương để thông báo phần đất diện tích khoảng 240 m2 trong đó có 230 m2 thuộc một phần thửa 81 – 82 được ông mua lại của bà Nguyễn Thị Mắc năm 2000, phần đất còn lại l đất của ông sử dụng ổn định từ trước năm 1975 bị thu hồi để thực hiện dự án Liên tỉnh lộ 25B giai đoạn 2, ngày 19/7/2010 BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X ban hành quyết định số 10402/QĐ-UBND về việc bồi thường, hỗ trợ thiệt hại và tái định cư đối với phần đất này và xác định phần đất của ông thuộc dự án 174ha. Không đồng ý với quyết định bồi thường ông đã khiếu nại đến chủ tịch BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X, trong khi ông khiếu nại thì ngày 03/12/2010 BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X ban hành quyết định số 15776/QĐ-UBND về việc cưỡng chế thu hồi đất đối với phần đất của gia đình ông, ngày 21/3/2011 BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X ban hành quyết định số 3533/UB-UBND ngày 21/3/2011 sửa đổi một phần nội dung quyết định số 10402/QĐ-UBND, ngày 04/5/2011 ban hành quyết định số 5635/QĐ-UBND về việc hủy bỏ quyết định số 3533/QĐ-UBND, sửa đổi một phần nội dung của quyết định 10402/QĐ-UBND nhưng ngày 15/01/2014 mới bàn giao cho ông.
03/2014/HC- ST Sơ thẩm Hành chính
- 1003
- 19
Khiếu kiện hành vi hành chính về việc không cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Tháng 02 năm 1985 Hợp tác xã nông nghiệp I xã Tam Bình, huyện TĐ giao khoán cho hộ ông NĐ_Nguyễn Văn Phây diện tích 4.917 m2 quyền sử dụng đất tại toàn bộ khu I Gò Dưa (nay thuộc phường BC, quận TĐ). Thời điểm giao đất thực tế là tháng 02/1985 tuy nhiên tại bảng giao khoán ghi giao đất ngày 01 tháng 02 năm 1060 là có sự nhầm lẫn, (ghi nhầm ngày sinh của ông LQ_Nguyễn Văn Bảo, con trai ông NĐ_Nguyễn Văn Phây). Khi nhận đất giao khoán, hộ ông NĐ_Phây có 07 nhân khẩu, vợ chồng ông NĐ_Phây cùng 05 người con. Toàn bộ diện tích đất trên do 07 nhân khẩu trong hộ cùng quản lý sử dụng. Quá trình sử dụng đất gia đình ông NĐ_Phây khai phá, cải tạo thêm đối với phần đất bỏ hoang (cũng thuộc khu đất được giao khoán) để sử dụng nên diện tích thực tế của khu đất khoảng 7.000 m2 , thuộc thửa 275, tờ bản đồ thứ 2 Bộ địa chính xã Tam Bình, huyện TĐ (Tl 299/TTg của Thủ Tướng Chính Phủ). Hàng năm gia đình ông NĐ_Phây đóng thuế đầy đủ cho Nhà nước đối với diện tích đất được giao khoán. Năm 1997 vợ ông NĐ_Phây - bà Bùi Thị Tư chết, gia đình ông NĐ_Phây vẫn tiếp tục canh tác toàn bộ diện tích đất.
01/2012/HC-ST Sơ thẩm Hành chính
- 1843
- 40
Khiếu kiện hành vi hành chính về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Ông Phạm Văn Trí đại diện cho ông NĐ_Võ Văn Tuấn và bà NĐ_Võ Thị Minh Trang trình bày: nguồn gốc đất diện tích khoảng 11.000m2 thửa số 930, 931, 932, 933 tờ bản đồ số 12 cùng tọa lạc tại ấp Phú Hòa, xã LĐ, thành phố TV, tỉnh TV là của ông bà, cha mẹ cho lại bà Võ Thị Bửu Ân và bà NĐ_Võ Thị Minh Trang canh tác từ sau giải phóng đến nay. Bà Võ Thị Bửu Ân do bị mất năng lực hành vi dân sự nên nhiều năm nay anh NĐ_Tuấn con bà Ân trực tiếp canh tác, cất nhà ở ổn định và đã đăng ký kê khai với Nhà nước thửa 930 diện tích 1.610m2, thửa số 933 diện tích 4.460m2. Phần còn lại do bà NĐ_Võ Thị Minh Trang khai thác canh tác, cất nhà, trồng cây trái, cây lâu năm, sử dụng ổn định trên 30 năm nay và có đăng ký kê khai với Nhà nước thửa 931, 932 diện tích 4.970m2
06/2012/HC-ST Sơ thẩm Hành chính
- 740
- 9
Khiếu kiện quyết định hành chính về việc giao đất
Ông LQ_Tuấn trình bày: Vào khoảng năm 1954, ông Nguyễn Văn Báu khai phá phần đất 09 công chiều ngang, chiều dài tính từ sông Gành Hào đến Kinh Quản Húi và giao cho con ruột là bà Nguyễn Thị Tám quản lý, sử dụng. Đến năm 1968, địch đóng đồn nên tất cả phải đi di dân đi nơi khác sinh sống nên bỏ đất hoang. Đến năm 1975, gia đình ông trở về canh tác. Đến năm 1976, do đê bị vỡ nhà nước huy động nhân dân đắp đê ngăn mặn nên đất chia thành 02 phần trong đê và ngoài đê.
05/2015/HC-ST Sơ thẩm Hành chính
- 2347
- 39
Khiếu kiện quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng
Căn nhà số 1009/6BL LG, phường 8, Quận X, thành phố HCM (số cũ) số mới 50B LG Phường 8, Quận X, thành phố HCM do vợ chồng bà NĐ_Sa mua lại của ông Võ Văn Cẩn vào năm 1962 diện tích là 71,05 m2, không lập văn tự mua bán, hai bên giao tiền và nhận nhà trực tiếp, caáu truùc nhà: mái tole, gác gỗ, tường gạch + vách caây, nền xi măng, gia đình bà NĐ_Sa được chính quyền chế độ cũ cấp tờ khai gia đình trước 1975. Căn nhà này từ khi mua đến nay gia đình bà NĐ_Sa và các con sử dụng ổn định lâu dài, không có tranh chaáp. Năm 1996 chồng bà NĐ_Sa là ông Nguyễn Văn Mỹ chết nên nhà này do bà NĐ_Sa và các đồng thừa kế của ông Mỹ đang sử dụng.