cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

19/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1368
  • 15

Tranh chấp thừa kế

02-08-2006

Tài sản chung của vợ chồng cụ Phan Danh và cụ Trần Thị Lựu gồm có một ngôi nhà cấp 4 diện tích 60m2 trên 3 sào 60 thước đất (theo chứng thư kiến điền cấp ngày 24/9/1963). Sau khi cụ Lựu chết, nhà đất do cụ Danh quản lý và sau khi cụ Danh chết, nhà đất của hai cụ do vợ chồng bà BĐ_Ngọn quản lý, sử dụng. Ngày 11/6/2004 bà NĐ_Phan Thị Tự và bà NĐ_Phan Thị A khởi kiện yêu cầu chia thừa kế tài sản của hai cụ là căn nhà trên 1900m2đất (hai cụ có 2.200m2 đất khi còn sống đã cho bà BĐ_Ngọn 300m2) theo pháp luật và xin nhận bằng hiện vật. Ngày 16/8/2004 bà NĐ_Tự, bà NĐ_A nộp tạm ứng án phí.


137/2006/PS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 875
  • 19

Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà và chuyển nhượng quyền sử dụng đất

22-06-2006

Ngày 4/9/1989, vợ chồng ông BĐ_Thuần tổ chức họp gia đình có mặt các người con và lập “biên bản cha mẹ giao đất và tài cho các con”, ông BĐ_Thuần, bà Soi phân chia đất cho các con trong đó cho anh Nguyễn VH 57.6m2 (1 miếng 6) và bán cho anh NĐ_Tuấn 2 sào đất giá 3,5 chỉ vàng một sào với yêu cầu trả ngay trong năm 1/3, số còn lại 2/3 trả năm 1990. Ngôi nhà trị giá 6 tạ thóc yêu cầu trả ngay 3 tạ, còn 3 tạ cho anh NĐ_Tuấn với điều kiện để cha mẹ ở đến khi qua đời thì anh NĐ_Tuấn mới được sử dụng nhà. Biên bản có xác nhận của Chủ tịch ủy ban nhân dân xã VH ngày 20/9/1989 (BL97).


08/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1976
  • 38

Đòi lại tài sản

24-01-2013

Theo đơn khởi kiện ngày 08/7/2011 và trong quá trình tố tụng, bà NĐ_Phạm Thị Hương và người đại diện của bà NĐ_Hương trình bày: Cha chồng của bà NĐ_Hương là ông Nguyễn Kỳ Huệ có tạo dựng được căn nhà bê tông cốt thép diện tích xây dựng là 148,8m2 và phần diện lích 921,4m2 tọa lạc tại số 3/58 Quốc lộ 1A thị trấn CL, huyện CL, tỉnh TG và một số vật dụng trong nhà từ trước năm 1975. Đến năm 1991, được Sở xây dựng tỉnh TG cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và đất ở. Đến năm 1999, ông Huệ chết để lại di chúc định đoạt toàn bộ phần tài sản cho ông Nguyễn Kỳ Hà (con ruột của ông Huệ), là chồng của bà NĐ_Hương trong đó căn nhà và phần đất nói trên, ông Hà chưa sang tên chuyển quyền thì đến năm 2008 ông Hà chết để lại di chúc, tháng 03/2011 bà NĐ_Hương đã được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và đất.


59/2012/QĐ-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1689
  • 44

Tranh chấp thừa kế

06-11-2012

Cụ Tòng, cụ Dân tạo lập được nhà 62 NCT, phường 3, TH, PY từ năm 1957, cụ Tòng chết không để lại di chúc. Ngày 26/4/1994, cụ Dân lập di chúc có xác nhận của ủy ban nhân dân phường 3 cùng ngày, phân chia cho bà hưởng thừa kế phần nhà trước 6m X 6,8m, giao phần nhà sau 6m X 7,8m cho anh LQ_Võ Văn Thân (con ông BĐ_Vân) sở hữu. Di chúc do cụ Dân làm và tự đem đến ủy ban nhân dân phường 3 xác nhận, sau 1 - 2 tháng thì cụ Dân đưa di chúc và giấy tờ về nhà đất cho bà giữ, không đưa cho anh LQ_Thân bản nào. Bà lập gia đình năm 1969, ở chung cùng cụ Dân và ông BĐ_Vân tại nhà đất tranh chấp đền năm 1982 bà mua nhà ở riêng tại nhà đang ở hiện nay. Năm 1975 cụ Dân mua cho bà LQ_Giang nhà 20 PĐP, không cho bà và ông BĐ_Vân tài sản nào. Ông BĐ_Vân ở cùng cụ Dân đến năm 1987 thì cụ Dân ngăn nhà trên ở riêng, ăn riêng, còn ông BĐ_Vân ở nhà dưới. Trước đây do ông BĐ_Vân hỗn láo, đối xử với mẹ không ra gì, mẹ bà đã phải gửi đem ra ủy ban nhân dân phường 3 và ủy ban nhân dân phường 3 đã phải giải quyết 3 lần vào năm 1986. Cụ Dân còn viết nhiều nhật ký về việc vợ chồng ông BĐ_Vân đối xử tệ bạc.


66/2011/DS-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 2391
  • 57

Tranh chấp thừa kế

22-09-2011
Tòa phúc thẩm TANDTC

Ngôi nhà đất có giá trị 1.178.771.190đ toạ lạc tại 13/1 Hà Ra, khóm Vạn Lợi, phường VT, thành phố NT, tỉnh KH là di sản của vợ chồng ông Lê Phan (chết 1986), bà Phạm Thị Đó (chết 2008) để lại. Năm 1986 ông Lê Phan chết không để lại di chúc, kể từ đó đến trước khi bà NĐ_Mai khởi kiện, những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông Phan không có ai yêu cầu chia thừa kế phần di sản của ông Phan theo pháp luật. Vì vậy, di sản của ông Phan vẫn còn đó, dù có còn hay hết thời hiệu khởi kiện cũng như chưa đủ điều kiện chia tài sản chung phần di sản của ông Phan như án sơ thẩm án sơ thẩm xác định thì bà Phạm Thị Đó cũng không có quyền định đoạt đối với phần di sản của ông Phan. Muốn định đoạt đối với phần di sản của ông Phan phải có sự thống nhất của các đồng thừa kế của ông Phan gồm bà Đó và những người con chung của ông bà. Do đó, việc bà Đó lập di chúc ngày 16/5/2003 định đoạt cả phần di sản của ông Phan là không hợp pháp.