13/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 526
- 11
NHẬN THẤY Theo các Đơn khởi kiện ngày 22/12/2010, ngày 13/02/2012 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn - bà NĐ_Nguyễn Thị Bình trình bày: Nguồn gốc đất tranh chấp là của ông nội chồng (cụ Nguyễn Văn Bạn) có diện tích 10 công đất ruộng, sau khi cụ Bạn chết, ông BĐ_Nguyễn Văn Chương (cha chồng bà) quản lý canh tác. Đến năm 1995, ông Nguyễn Văn Xuân (con ông BĐ_Chương) cưới bà làm vợ, bà làm dâu cho gia đình ông BĐ_Chương được 2 năm, gia đình nhà chồng cho vợ chồng bà 3 công đất ruộng, 3 công đất vườn và thổ cư tổng cộng là 6 công, vợ chồng bà trực tiếp canh tác đến năm 2002, do chồng bà là ông Xuân bị bệnh chết nên bà có cố lại cho cha mẹ chồng 02 công đất ruộng bằng 10 chỉ vàng 24k, nhưng không làm giấy tờ, đến năm 2004 thì bà chuộc lại và trực tiếp canh tác được một năm.
09/2014/DS-GĐT: Yêu cầu bồi thường thiệt hại Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 980
- 18
Tháng 11/2001, gia đình bà xây 2 bức tường phía trong nhà (trong chỉ giới mở đường NGT), Chủ tịch BĐ_Ủy ban nhân dân thị trấn ĐG (nay là BĐ_Ủy ban nhân dân phường ĐG) đã có quyết định xử phạt hành chính và yêu cầu khôi phục lại hiện trạng. Do bà không chấp hành nên BĐ_Ủy ban nhân dân thị trấn ĐG đã tổ chức cưỡng chế. Tuy nhiên, khi tổ chức thực hiện cưỡng chế lại phá dỡ toàn bộ nhà quán bán hàng của bà (gồm cả những phần không có trong nội dung Biên bản vi phạm). Bà đã khởi kiện và khiếu nại đến Tòa án nhân dân và BĐ_Ủy ban nhân dân thành phố HN yêu cầu giải quyết nhiều lần, nhưng chưa được giải quyết dứt điểm. Tại các buổi hòa giải và làm việc với BĐ_Ủy ban nhân dân phường ĐG, bà yêu cầu BĐ_Ủy ban nhân dân phường bồi thường cho bà 05 tỷ đồng (bao gồm thiệt hại về tài sản, tinh thần...).
07/2014/DS-GĐT: Tranh chấp tiền đặt cọc thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 786
- 22
Tranh chấp tiền đặt cọc thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Để bảo đảm thực hiện hợp đồng chuyển nhượng trên, anh chị đã đặt cọc cho bà BĐ_Ninh 100 triệu đồng, bà BĐ_Ninh đã nhận đủ số tiền đặt cọc này. Trong hợp đồng đặt cọc, bà BĐ_Ninh cùng anh LQ_Nguyễn Ngọc Hà, chị LQ_Hoàng Thị Thanh, chị LQ_Nguyễn Thị Cường, là con trai, con dâu và con gái bà BĐ_Ninh ký, có xác nhận của ủy ban nhân dân thị trấn KS. Đến thời hạn theo thỏa thuận, anh chị yêu cầu nhưng bà BĐ_Ninh không làm thủ tục để thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo thỏa thuận. Vì vậy, anh chị yêu cầu bà BĐ_Ninh phải trả lại 100 triệu đồng đặt cọc và tiền phạt cọc là 100 triệu đồng.
06/2014/DS-GĐT: Tranh chấp lối đi Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 840
- 13
Tại đơn khởi kiện ngày 01/9/2008 và quá trình tố tụng, nguyên đơn là các ông NĐ_Nguyễn Lương Đương, NĐ_Nguyễn Hữu Vân và NĐ_Nguyễn Trung Hải trình bày: Ba hộ gia đình các ông được ông LQ_Nguyễn Lương Phương chuyển nhượng cho thửa đất số 84, tờ bản đồ số 5G-I-24 tại ngách 188/7 VTV, TX, HN. Khi chuyển nhượng, ông LQ_Phương có để lại khoảng 30m2 đất để làm sân và lối đi cho ba hộ gia đình. Ba hộ gia đình các ông đã cam kết về nghĩa vụ và quyền hạn sử dụng lối đi này ngay sau khi các hộ làm nhà ở và xây lát gạch tôn tạo lối đi. Các hộ gia đình đều có ranh giới rõ ràng, khuôn viên ổn định, có tường rào bao quanh. Ngày 29/5/2006, anh BĐ_Dương Anh Tính tự ý đập phá tường rào, trổ cửa bất hợp pháp sang ngõ đi chung của ba hộ các ông. Ủy ban nhân dân phường KT đã lập biên bản và tiến hành hòa giải nhưng không thành. Do vậy, các ông đề nghị Tòa án xác định lối đi trước cửa nhà số 8, số 10, số 12 là lối đi chung của gia đình các ông. Buộc gia đình anh BĐ_Tính xây dựng lại bức tường phân định ranh giới như hiện trạng ban đầu.
05/DS-GĐT: Ly hôn và yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1491
- 30
Ly hôn và yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng
Theo đơn khởi kiện và bản tự khai chị NĐ_Phạm Thị Thương trình bày: Tôi và anh BĐ_Trần Anh Tú có kết hôn hợp pháp vào năm 1995 tại UBND phường Cẩm Sơn, thị xã CP, trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện. Tôi và anh BĐ_Tú sống hạnh phúc đến năm 2008 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn do anh BĐ_Tú đi làm thường xuyên về nhà muộn, chơi bời rồi về nhà gây sự, đánh đập, chửi bới tôi. Từ lý do đó tôi và anh BĐ_Tú thường xuyên cãi, chửi, đánh nhau, có lần hàng xóm phải can thiệp. Ngoài ra, anh còn không bênh vực tôi khi tôi có va chạm với gia đình bên nội. Từ tháng 10 năm 2011, do mâu thuẫn vợ chồng căng thẳng, tôi đã đưa con nhỏ đi chỗ khác ở; nay xác định tình cảm vợ chồng không còn nên xin được ly hôn.