104/2013/DS-GĐT: Đòi lại nhà cho ở nhờ Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 612
- 15
Ngôi nhà số 62 NTN, quận HBT, thành phố HN (sau đây gọi là nhà số 62 NTN) thuộc thửa số 841, tờ bản đồ số 10, diện tích 230m2, mang bằng khoán điền thổ só 120p-Khu đồn thủy, thuộc quyền sở hữu của cụ Đỗ Huy Đan và cụ Đỗ Thị Vị. Năm 1979, cụ Đan lập di chúc chia ngôi nhà trên cho 5 người con gồm: bà Đỗ Thị Như (bà Như đã chết 1999, có chồng là ông Nguyễn Quý Bính chết 1979 và có 2 con là ông NĐ_Nguyễn Đức Linh, ông NĐ_Nguyễn Đức Bảy); bà Đỗ Thị Nhạn (bà Nhạn chết năm 2000, có chồng là ông Bùi Đồng chết năm 2008 và có 3 con là bà NĐ_Bùi Đỗ Quý, ông NĐ_Bùi Hải, ông NĐ_Bùi Trầm), bà Đỗ Thị Loan (chết năm 2003, có chồng là ông Nguyễn Mạnh Hồng chết 1996 và không có con chung), ông NĐ_Đỗ Bội Hùng hiện đang ở Cộng hoà Pháp và bà NĐ_Đỗ Bội Tình. Ngày 26/12/1959, cha mẹ bà có hợp đồng cho ông BĐ_Nguyễn Quang Mạnh thuê một nửa gian phòng tầng 1 diện tích là 13,5m2 (trước là Gara ô tô), thời hạn thuê là 01 năm, giá thuê là 08đ/tháng, hết hạn hợp đồng hai bên không ký hợp đồng mới, ông BĐ_Mạnh tiếp tục ở.
99/2013/DS-GĐT: Tranh chấp thừa kế Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1971
- 42
Tại đơn khởi kiện ngày 02/06/2009 và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn là cụ NĐ_Nguyễn Thị Hảo trình bày: cố Nguyễn Văn Cừ (chết năm 1976) và cố Hà Thị Cứng (chết năm 1985) có 5 người con là: cụ Nguyễn Thị Cớt (chết năm 1963, có 1 người con là ông LQ_Phan Trung Hiền); cụ LQ_Nguyễn Văn Hưng, cụ BĐ_Nguyễn Tấn Phước, cụ Đặng Văn Nhì (chết năm 1971, có 2 người con là: ông LQ_Đặng Thành Tín và bà LQ_Đặng Thị Hạ) và cụ NĐ_Hảo. Về tài sản: cố Cừ và cố Cứng tạo lập được 6 thửa đất gò (thửa số 229, 230, 231,273,239, 403) với tổng diện tích 23.254m2 tại ấp 3, xã TĐ, huyện BC, tỉnh BD (trên đất có ngôi nhà thờ cấp 4, diện tích 28m2, do cụ BĐ_Phước sử dụng).
96/2013/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sở hữu nhà Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 367
- 30
Căn nhà số 26/3B, ấp Cầu Cống, xã AK, huyện TĐ (nay là 26/3B LĐC, phường AK, quận X) thành phố HCM, diện tích 87,50m2 có nguồn gốc của ông BĐ_Phan Tấn Bảo và bà BĐ_Nguyễn Thị Hà. Để tạo điều kiện cho ông BĐ_Bảo, bà BĐ_Hà có tiền xuất cảnh sang Mỹ, còn bà thì có nhà để ở, nên tháng 7/1990, ông BĐ_Bảo và bà BĐ_Hà bán nhà nêu trên cho bà với giá 20 lượng vàng. Bà có 05 lượng vàng, nên phải mượn thêm của anh chị em một là anh LQ_Phan Tấn Tú, em LQ_Phan Tấn Hùng và chị LQ_Phan Thị Kim Hoà, mỗi người 05 lượng vàng. Lúc giao vàng có sự chứng kiến của những người cho vay vàng; vì là chị em ruột, nên không làm giấy tờ mua bán. Ngày 05/7/1990, ông BĐ_Bảo và bà BĐ_Hà làm “Giấy ủy quyền” (có công chứng) và “Tờ cam kết không làm chủ bất động sản” ngày 26/8/1990 (có chứng thực của ủy ban nhân dân xã AK, huyện TĐ) với nội dung: Căn nhà 26/3B ấp Cầu Cống, xã AK, huyện TĐ là của bà NĐ_Vy cho ông BĐ_Bảo ở nhờ, ông BĐ_Bảo không đứng tên bất động sản nào khác tại Việt Nam.
157/2015/HNGĐ-ST: Ly hôn (Chồng yêu cầu) Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1970
- 58
Theo đơn ly hôn đề ngày 13/8/2014 và tại các biên bản tự khai, hòa giải nguyên đơn ông NĐ_Châu Văn Ban trình bày: Ông và bà BĐ_Trịnh Ngọc Bảo tự nguyện chung sống với nhau và làm thủ tục đăng ký kết hôn vào năm 2002, có tổ chức đám cưới và cũng có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Phường Z, Quận X. Trước khi chung sống với nhau thì chưa ai có vợ có chồng. Sau kết hôn vợ chồng sống chung bên gia đình chồng khoảng 05 năm, sau đó thì dọn ra ở riêng nhưng cũng gần nhà gia đình. Quá trình chung sống từ năm 2002 đến năm 2009 thì hạnh phúc vợ chồng cũng bình thường, thỉnh thoảng có cãi vã nhưng vẫn giải quyết được. Từ năm 2009, vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống nên vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vã. Mặc dù, vợ chồng đã cố gắng hàn gắn nhưng không có kết quả. Hiện nay, vợ chồng vẫn sống chung nhà, nhưng hai bên không nói chuyện với nhau cũng như không quan tâm và chăm sóc đối với nhau. Nay ông nhận thấy tình cảm vợ chồng phai nhạt, cuộc sống vợ chồng đã không còn hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được nên ông yêu cầu được ly hôn với bà BĐ_Bảo.
70/2015/DS-ST: Yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1899
- 60
Yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Tại đơn khởi kiện ngày 01/10/2013 và quá trình tham gia tố tụng cũng như tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn bà NĐ_Trần Thị Lộc trình bày: Xuất phát từ chỗ quen biết, vào năm 1995, bà NĐ_Trần Thị Lộc có cho bà BĐ_Bùi Thị Lãnh vay số tiền là 1,8 tỷ, qua nhiều lần đòi nợ không có kết quả, ngày 10/5/2012 bà NĐ_Lộc chính thức khởi kiện bà BĐ_Bùi Thị Lãnh và ông BĐ_Nguyễn Văn Nam ra Tòa án nhân dân Quận B để yêu cầu hai người này phải thanh toán toàn bộ số nợ cho bà. Qua hai cấp xét xử, bà NĐ_Trần Thị Lộc đã có trong tay bản án có hiệu lực pháp luật số 321/2013/DS-PT ngày 13/3/2013 của Tòa án ND thành phố HCM với quyết định buộc bà BĐ_Bùi Thị Lãnh phải thanh toán cho bà NĐ_Trần Thị Lộc số tiền là 4.669.841.096 đồng. Tuy nhiên đến nay bản án vẫn chưa được thi hành do bà BĐ_Lãnh không có tài sản gì, điều đó là hết sức vô lý bởi bà NĐ_Lộc được biết bà BĐ_Lãnh là đồng sở hữu với chồng là ông BĐ_Nguyễn Văn Nam căn nhà số 65 TX Phường Q Quận E, nhưng trong quá trình giải quyết vụ án, bà BĐ_Lãnh đã làm các thủ tục xác nhận căn nhà số 65 TX là tài sản riêng của ông BĐ_Nam, và để ông BĐ_Nam hoàn thành xong thủ tục tặng cho con gái mình căn nhà này.