cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

12/2010/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1301
  • 35

Đòi lại nhà đất cho ở nhờ

02-04-2010

Theo đơn khởi kiện đề ngày 25/5/2005 và các lời khai của chị Nghiêm Thị Bình (con gái bà NĐ_Vy) và của chị Nguyễn Thị Quỳnh Mai đều là đại diện của nguyên đơn bà NĐ_Nguyễn Thị Kim Vy, trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn và đại diện nguyên đơn trình bày: Căn nhà số 19 ngõ Hồ Bãi Cát trên diện tích đất 17,7 m2 thuộc thừa số 178 tờ bản đồ 6H-I-10 là của bà NĐ_Vy (bà NĐ_Vy đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ngày 15/6/2004). năm 1998, bà NĐ_Vy cho con trai là anh BĐ_Nghiêm Xuân Trân vào ở nhờ. Năm 2003, trong khi bà NĐ_Vy đi thăm con tại Canada, anh BĐ_Trân đã ngang nhiên bán căn nhà này cho vợ chồng anh LQ_Chung Quốc Vinh, chị LQ_Nguyễn Thị Tâm. Anh LQ_Vinh tuy biết nhà không phải thuộc sở hữu của anh BĐ_Trân nhưng vẫn cố tình mua. Anh LQ_Vinh, anh BĐ_Trân đã phá nhà cũ và xây lại thành nhà 4,5 tầng và nguyên đơn yêu cầu Tòa án giải quyết buộc anh BĐ_Trân, anh LQ_Vinh trả lại nhà đất và bà NĐ_Vy sẽ thanh toán cho anh LQ_Vinh, anh BĐ_Trân 50% giá trị xây dựng nhà.


11/2010/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 3923
  • 133

Đòi lại tài sản

02-04-2010

Từ năm 1997 đến năm 2000, bà cho ông BĐ_Thân, bà BĐ_Bảo mượn 40 lượng vàng ( vay 3 lần), nhưng chỉ tính lãi 20 lượng vàng; còn 20 lượng thì bà BĐ_Bảo mua giùm bà 2 nền nhà ở chợ Cái Tắc vào năm 2001, nên vợ chồng bà BĐ_Bảo chỉ còn nợ bà 20 lượng vàng. Năm 2001, bà đồng ý cho bà BĐ_Bảo cất 1 căn nhà tạm trên phần đất thổ cư để làm quán bán giải khát, nhưng bà BĐ_Bảo lại cất nhà cấp 4. Bà và bà BĐ_Bảo thỏa thuận rằng : bà lấy căn nhà cấp 4 nói trên; còn bà BĐ_Bảo lấy một trong hai nền nhà tại chợ Cái Tắc; bà BĐ_Bảo sang tên 10.206m2 đất nói trên cho ông Nguyễn Tấn Thành (em chồng bà ). Sau đó, vợ chồng bà BĐ_Bảo bán một nền nhà của bà ( còn lại) ở chợ Cái Tắc và đã đưa tiền cho bà. Còn thỏa thuận nói trên thì vợ chồng bà BĐ_Bảo không thực hiện.


09/2010/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 2118
  • 31

Tranh chấp thừa kế

10-03-2010

Khi cụ Trương Công Nghế và cụ Đỗ Thị Hiển còn sống đã cho bố anh là ông Trương Công Chế nhà cấp 4 trên diện tích 94m2. Năm 1993 ông Chế chết, cụ Nghế, cụ Hiển nói với mọi người là cho anh nhà đất này. Sau khi cụ Nghế, cụ Hiển mất, anh chưa kịp làm thủ tục chuyển quyền sử dụng đất nên ngày 26/11/2001 các thừa kế của cụ Nghế, cụ Hiển là bà BĐ_Trương Thị My, ông Trương Quang Tiến, bà BĐ_Trương Thị Hà, bà Trương Thị Hòa đã họp để phân chia đất thổ cư do cụ Nghế, cụ Hiển đê lại theo nguyện vọng của các cụ là nhà đất trên diện tích 94m2 thì giao cho anh NĐ_Trương Quang Khang, nhà đất trên diện tích 147,6m2 thì giao cho ông Trương Quang Tiến.


07/2010/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 431
  • 39

Tranh chấp quyền sử dụng đất

10-03-2010

Ngày 7/8/1984 vợ chồng cụ BĐ_Trần Nhứt Nghi, cụ Nguyễn Thị Hai chuyển nhượng cho cha của bà là cụ LQ_Nguyễn Ngọc Châu 2 công đất (2.600 m2) giá 100 giạ lúa nhưng để cho anh trai của bà là ông LQ_Nguyễn Ngọc Lâm đứng tên đồng thời xuất trình tờ “Giấy tay sang đất ruộng” lập ngày 7/8/1984. Sau khi sang nhượng đất, gia đình bà quản lý sử dụng, đến năm 1989 thì cụ BĐ_Nghi chiếm lại đất, gia đình bà có khiếu nại đến Uỷ ban nhân dân huyện KS. Uỷ ban nhân dân huyện KS ban hành Quyết định số 60/QĐ.UBH.89 ngày 5-9-1989 thu hồi 2 công đất của gia đình cụ BĐ_Nghi để giao cho gia đình bà nhưng cụ BĐ_Nghi không chấp hành. Đến ngày 4-4-1995 Uỷ ban nhân dân huyện KS cấp giấy chứng nhận quyền sử dựng đất cho hộ gia đình bà đứng tên diện tích 2.600 m2.


05/2010/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 621
  • 10

Tranh chấp thừa kế

03-03-2010

Năm 1949 cụ Đương chết không để lại di chúc. Năm 1950 cụ Trạng kết hôn với cụ Nguyễn Thị Mến có hai người con chung là ông BĐ_Nguyễn Đình Hạ và ông LQ_Nguyễn Minh. Năm 1982 cụ Trạng- chết, năm 1983 cụ Mến chết đều không để lại di chúc. Sau khi cụ Mến chết, tài sản để lại là căn nhà ngói 3 gian trên diện tích đất 1.200m2 tại thôn câu Lâu Đông, xã DP, huyện DX, tỉnh QN, hiện do gia đình ông BĐ_Nguyễn Đình Hạ quản lý, sử dụng. Năm 1992, anh NĐ_LQ_Nguyễn Quang Phong, bà LQ_Nguyễn Thị Hoa, bà LQ_Nguyễn Thị Mai, ông LQ_Nguyễn Nghị và bà LQ_Nguyễn Thị Lài (là các con, cháu của cụ Trạng, cụ Đương) khởi kiện yêu cầu chia thừa kế tài sản của cụ Trạng, cụ Đương. Bị đơn là ông BĐ_Nguyễn Đình Hạ đồng ý chia thừa kế, nhưng yêu cầu xem xét đến công sức của vợ chồng ông trong việc tu bổ đất, sửa chữa nhà.