cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

18/2014/ HC-ST Sơ thẩm Hành chính

  • 606
  • 12

Khiếu kiện quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng

29-07-2014
TAND cấp huyện

Theo Đơn khởi kiện ngày 25/10/2011, Đơn thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện ngày 01/10/2013, bản tự khai, biên bản đối thoại và tại phiên Tòa, người khởi kiện – bà NĐ_Nguyễn Thị Đa có ông Hà Ngọc Tuyền là người đại diện theo ủy quyền yêu cầu Tòa án nhân dân Quận X hủy Quyết định số 10293/QĐ – UBND ngày 19/7/2010 của BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X và Quyết định số 12179/QĐ – UBND – TTr ngày 16/9/2011; yêu cầu BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X phải bồi thường toàn bộ 3.597m2 theo mức 100% giá đất ở là 16.200.000đ/m2 vì vào thời điểm thu hồi giải tỏa để thực hiện dự án Liên tỉnh lộ 25B giai đoạn 2 đất này đã được san lấp theo Giấy phép số 40/GP – UB – QLĐT ngày 05/4/2000 của BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X và có vị trí mặt tiền đường, đất thu hồi có nguồn gốc là đất trong cùng một thửa có nhà ở; yêu cầu công nhận diện tích 3.597m2 đất bị thu hồi thuộc quyền sở hữu chung của 26 hộ dân, không phải của cá nhân bà NĐ_Nguyễn Thị Đa, buộc BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X phải xét hạn mức bồi thường cho 26 hộ chứ không phải hạn mức bồi thường cho 01 hộ.


16/2014/ HC-ST Sơ thẩm Hành chính

  • 396
  • 8

Khiếu kiện quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng

16-07-2014
TAND cấp huyện

Người khởi kiện ông NĐ_Nguyễn Quang Thảnh ủy quyền ông Thái Hữu Nghĩa đại diện trình bày: Ông NĐ_Nguyễn Quang Thảnh có quản lý và sử dụng 01 căn nhà không số- Tổ 3- KP 1- Phường ALĐ- Quận X và diện tích 817,44 m² đất mà căn nhà tọa lạc. Nhà đất có nguồn gốc là của ông ông Nguyễn Văn Cường tạo lập trước năm 1975, ông Nguyễn Văn Cường là ông ngoại của ông NĐ_Nguyễn Quang Thảnh. Ông Nguyễn Văn Cường chết năm 1994. Năm 1996 theo di huấn của ông Nguyễn Văn Cường, nhà đất này được những người thừa kế của ông Nguyễn Văn Cường thỏa thuận nhường lại toàn bộ cho ông NĐ_Nguyễn Quang Thảnh quản lý và sử dụng và ông NĐ_Nguyễn Quang Thảnh là người trực tiếp quản lý và sử dụng ổn định từ đó cho đến nay. Nhà đất nằm trong khu quy hoạch giải tỏa khu đô thị mới Thủ thiêm. Ngày 12 tháng 03 năm 2004, BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X ban hành Quyết định số 1217/QĐ-UB về việc bồi thường, hỗ trợ thiệt hại giải phóng mặt bằng căn nhà không số- Tổ 3- KP 1- Phường ALĐ- Quận X của hộ ông NĐ_Nguyễn Quang Thảnh.


14/2014/HC-ST Sơ thẩm Hành chính

  • 339
  • 7

Khiếu kiện quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ tái định cư

12-06-2014
TAND cấp huyện

Theo Đơn khởi kiện, Bản tự khai và Biên bản đối thoại, người khởi kiện – ông NĐ_Lê Văn Thức có bà Nguyễn Thị Năm là người đại diện theo ủy quyền trình bày: Căn nhà số 55 NTĐ, khu phố 3, phường AP, Quận X, Thành phố HCM diện tích nhà đất là 725,1m2 thuộc thửa 502 tờ bản đồ số 65, tọa lạc tại xã AP, Quận X. Nguồn gốc căn nhà trên do bà Võ Thị Dơn (mẹ ông NĐ_Thức) tạo lập từ trước năm 1975. Đến năm 1980 bà Võ Thị Dơn cho lại con trai và con dâu là vợ chồng ông NĐ_Thức bà LQ_Hoá ở quản lý sử dụng, ông NĐ_Thức đã xây thêm nhà cấp 4 trên phần đất nông nghiệp (phần 500/725m2). Năm 2005 ông NĐ_Thức lập hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận phần đất 725,1m2 được BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X cấp giấy chứng nhận cho ông NĐ_Thức và bà LQ_Hoá đứng tên ngày 13/6/2005 (trong có có 200m2 được công nhận là đất ở).


10/2014/HC- ST Sơ thẩm Hành chính

  • 305
  • 11

Khiếu kiện quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng

29-04-2014
TAND cấp huyện

Theo ông NĐ_Gang, Quyết định hành chính của BĐ_Ủy ban nhân dân Quận Y gây thiệt hại cho gia đình ông NĐ_Gang vì ông NĐ_Gang có xây cất nhà và đã ở tại vị trí nhà, đất bị quy hoạch từ năm 2001, được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhưng BĐ_Ủy ban nhân dân Quận Y lại bồi thường theo giá đất nông nghiệp, không công nhận đất thổ cư. Ngoài ra, diện tích đất thực tế là 825,09m2 nhưng BĐ_Ủy ban nhân dân Quận Y chỉ bồi thường diện tích 787,89m2; BĐ_Ủy ban nhân dân Quận Y không bồi thường đối với vật kiến trúc trên đất là không thỏa đáng; thực tế hộ có 12 người cần được nhận căn hộ tái định cư. Ông NĐ_Gang xác định tiền xây cất nhà là do cha, mẹ của ông NĐ_Gang bỏ ra.


08/2014/HC-ST Sơ thẩm Hành chính

  • 883
  • 8

Khiếu kiện quyết định hành chính về việc cưỡng chế thu hồi đất

22-04-2014
TAND cấp huyện

Tại Đơn khởi kiện ngày 14/3/2012, Đơn khởi kiện bổ sung ngày 02/10/2012, Bản tự khai ngày 26/6/2012, Biên bản đối thoại ngày 14/9/2012, 19/3/2014 và tại phiên tòa, người khởi kiện – ông NĐ_Lương Anh Sương có ông LQ_Lương Duy Sinh là người đại diện theo ủy quyền trình bày: Phần nhà và đất tọa lạc tại số 739C đường TN (thuộc thửa 136 tờ bản đồ số 1 (ĐĐĐC)), tổ 29, phường BA, Quận X do ông NĐ_Lương Anh Sương sử dụng thuộc dự án xây dựng công viên vòng xoay chân cầu Sài Gòn, ông NĐ_Sương khởi kiện Quyết định cưỡng chế thu hồi đất số 13672/QĐ-UBND, ngày 24/10/2011 của BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X. Khoản 3, Điều 9 Luật Đất đai năm 2003 quy định: nếu người sử dụng đất không chấp hành theo quyết định thu hồi đất của cơ quan có thẩm quyền thì mới được ra quyết định cưỡng chế thu hồi đất. Bản thân ông NĐ_Sương và gia đình chưa nhân được quyết định thu hồi đất được ban hành theo đúng trình tự, thủ tục thẩm quyền được pháp luật quy định theo Điều 1 Nghị định 84/NĐCP, Điều 1 Nghị định 69/NĐCP nhưng BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X lại ban hành quyết định cưỡng chế thu hồi đất đối với ông NĐ_Sương là trái pháp luật.