264/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 515
- 3
Ngày 31/9/1958 vợ chồng ông Ngô Trọng Hoè và bà Nguyễn Thị Tỉnh chuyển nhượng cho vợ chồng cụ Mai Văn Tích và cụ Nguyễn Thị Đệ nhà và đất tại 11 THĐ, phường CL, thành phố LS, tỉnh LS. Cụ Tích và cụ Đệ có 05 người con là ông LQ_Mai Văn Bảo, bà BĐ_Mai Thị Linh, ông LQ_Mai Văn Tài, bà LQ_Mai Thị Hằng, NĐ_Mai Thị Liên, ông LQ_Mai Văn Quan là con riêng của cụ Tích (nhưng được cụ Đệ nuôi từ nhỏ và coi như con). Năm 1973, cụ Tích chết không để lại di chúc. Ngày 29/01/2003 hộ cụ Đệ được cấp GCNQSD đất 146,2m2, tại số 11 THĐ, phường CL, tp LS, tỉnh LS.
264/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 638
- 9
Tranh chấp quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất
Từ năm 2006 giữa bà NĐ_Như với vợ chồng anh BĐ_Chiến phát sinh mâu thuẫn. Ngày 20/9/2008 bà NĐ_Nguyễn Thị Như đã khởi kiện yêu cầu vợ chồng anh BĐ_Chiến phải tháo dỡ nhà tắm, tường rào và tiệm uốn tóc để trả lại nhà đất cho bà NĐ_Như. Anh BĐ_Nguyễn Trung Chiến không đồng ý trả lại nhà và đất cho bà NĐ_Như, anh BĐ_Chiến cho rằng anh sống với cụ Thảnh từ nhỏ, có chung hộ khẩu với cụ Thảnh, cụ Thảnh chết để lại nhà và đất cho anh.
69/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 603
- 15
Tranh chấp quyền chiếm hữu và sử dụng tài sản
Cụ Mạch Bững và cụ Nguyễn Thị Huỳnh có 13 người con, nhưng 5 người đã chết (khi còn nhỏ), còn lại 8 người là: bà LQ_Mạch Thị Bảo (đang ở Canada), bà LQ_Mạch Thị Thu Ca, ông BĐ_Mạch Văn Bình, ông LQ_Mạch Văn Tân (ở Hoa Kỳ), bà LQ_Mạch Thị Châu, ông LQ_Mạch Văn Minh, ông và bà LQ_Mạch Thị Thanh. Về tài sản: Hai cụ có căn nhà 80m2 (4m x 20m) trên phần đất tại khóm 1, thị trấn CL, huyện CL, tỉnh TV. Năm 1982 cụ Bững chết không để lại di chúc. Trước giải phóng năm 1975, ông BĐ_Bình lập gia đình và ở tại Bến Tre. Sau giải phóng, vợ chồng ông BĐ_Bình và con là anh BĐ_Mạch Thiên Kiên về ở chung nhà với hai cụ. Năm 1983, cụ Huỳnh kê khai đất theo Chỉ thị 299/TTg.
65/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1253
- 82
Tại đơn khởi kiện ngày 25/9/2008 và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn là ông NĐ_Lưu Hán Mẫn trình bày: Căn nhà số 457/391 A (nay là nhà số 455/10) PVT, phường 7, quận X, thành phố HCM của cố Lý Tường Hương (là bà nội của ông) nhận chuyển nhượng của cụ Trần Nga năm 1958. Năm 1977, cố Hương chết, cụ Lưu Tòng (là cha của bà BĐ_Trang) xin ở nhờ. Năm 2005, cụ Tòng chết, bà BĐ_Trang tiếp tục quản lý, sử dụng nhà, ông đòi nhà nhiêu lân nhưng bà BĐ_Trang không trả, nên ông yêu cầu bà BĐ_Trang và các con của cụ Tòng trả nhà cho ông vì cụ Lương là con duy nhất của cố Hương (cụ Lương sinh tại Trung Quốc nên không có giấy khai sinh và giấy tờ chứng minh cụ Lương là con của cố Hương).
60/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 866
- 18
Tranh chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất
Nguồn gốc thửa đất diện tích 3 sào 8 thước tại tổ 9, khu vực 9, phường TQD, thành phố QN, tỉnh BĐ là của cha mẹ bà là vợ chồng cụ Nguyễn Sáng, cụ Nguyễn Thị Hồ (hai cụ được chế độ cũ cấp trích lục địa bộ). Bà được cha mẹ cho 300m2trong tổng số diện tích đất nêu trên. Năm 1957, bà dựng một căn nhà mái lợp tranh, tường trát đất, nền gạch thẻ, diện tích 10m2. Năm 1960, gia đình cụ Lê Văn An (là cha của ông BĐ_Lê Văn Mạnh) tản cư, đến xin ở nhờ; việc cho ở nhờ chỉ nói miệng. Năm 1975 căn nhà dột nát, bà đồng ý để cụ An sửa chữa lại. Sau đó cụ An sửa chữa nhiều lần và nới rộng diện tích nhà rồi giao lại cho ông BĐ_Mạnh quản lý, sử dụng. Khoảng năm 1995, bà đến gặp ông BĐ_Mạnh đòi lại nhà, nhưng vợ chồng ông BĐ_Mạnh không trả. Nay bà yêu cầu ông BĐ_Mạnh trả lại nhà, đất cho bà.