04/2014/KDTM-ST: Tranh chấp hợp đồng quảng cáo và tiêu thụ sản phẩm Sơ thẩm Kinh doanh thương mại
- 1988
- 66
Tranh chấp hợp đồng quảng cáo và tiêu thụ sản phẩm
Ngày 20/4/2011, BĐ_Công ty TNHH Xây dựng Hồng Hân (sau đây gọi tắt là BĐ_Công ty Hồng Hân) là chủ Nhà hàng Làng nướng 63 CT, Phường F, Quận X và NĐ_Công ty Cổ phần bia HN - VT (sau đây gọi tắt là NĐ_Công ty bia HN - VT; hoặc HVB) đã ký kết Hợp đồng Quảng cáo và Tiêu thụ bia Carlsberg – HN số 2004-2011/HVB-LN63. Theo nội dung hợp đồng thì NĐ_Công ty bia HN - VT tài trợ tiền mặt cho BĐ_Công ty Hồng Hân là 300.000.000 đồng và cung cấp các vật dụng tiếp thị cho BĐ_Công ty Hồng Hân để được hiện diện độc quyền tiếp thị các sản phẩm bia của NĐ_Công ty bia HN - VT tại Nhà hàng 63 CT, Phường F, Quận X (sau đây gọi tắt là Nhà hàng 63 CT) Hợp đồng trong thời hạn 01 năm kể từ ngày 27/4/2011 đến ngày 27/4/2012.
134/2015/DS-ST: Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 3680
- 244
Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà
Theo đơn khởi kiện ngày 11/3/2013 bản tự khai, biên bản hòa giải biên bản không tiến hành Hồ giải được bà NĐ_Nguyễn Thị Kim Trinh là nguyên đơn trình bày: Do có mối quan hệ với bà LQ_Huỳnh Thị Lộc từ trước nên vào khoảng năm 2009 bà LQ_Huỳnh Thị Lộc có gọi cho bà đến để cho bà Nguyễn Thị Hai mượn số tiền để bà Hai trị bệnh, nên vào ngày 27/12/2009 bà có đến nhà bà Hai và bà Hai có yêu cầu bà cho vay tiền nhưng bà không đồng ý, vì vay tiền mà không có tài sản đảm bảo, nên bà Hai có đồng ý bán cho bà căn nhà với giá chuyển nhượng là 300.000.000 đ (ba trăm triệu đồng), do đó vào ngày 27/12/2009 bà Hai và bà có ký hợp đồng đặt cọc để chuyển nhượng căn nhà mang số 39/5/3 đường X, khu phố 7, phường LĐ, quận TĐ, Thành phố HCM, hợp đồng bằng giấy tay không có công chứng, chứng thực của cơ quan có thẩm quyền, bà Hai giao cho bà Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, hồ sơ gốc số 4387/2007/GCN ngày 15/10/2007 (bản chính), bà có yêu cầu ông BĐ_Nguyễn Văn Bảo là con của bà Hai ký tên trong hợp đồng đặt cọc và đã giao cho bà Hai số tiền đặt cọc là 190.000.000 đ (một trăm chín mươi triệu đồng) có bà LQ_Huỳnh Thị Lộc là em ruột của bà Hai là người làm chứng.
112/2015/DS-ST: Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 2853
- 130
Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Ông Hân và bà NĐ_Vy chung sống có tất cả 05 người con: Bà LQ_Trần Thị Kim Loan, sinh năm 1967; Bà LQ_Trần Thị Kim Hạ, sinh năm 1970; Bà LQ_Trần Kim Thanh, sinh năm 1973; Bà LQ_Trần Kim Thơ, sinh năm 1976; Bà LQ_Trần Kim Thu, sinh năm 1982. Nhà nêu trên được xây dựng vào tháng 4 năm 2011, đến tháng 06/2011 nhà ông BĐ_Lý A Sửu tiến hành xây dựng nhà làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến nhà bà NĐ_Vy cụ thể nứt tường, nứt móng, gãy cột bê tông…Bà NĐ_Vy có khiếu nại đến phường nhưng hai bên vẫn không thống nhất được việc thỏa thuận bồi thường.
53/2015/DS-ST: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 391
- 9
Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Tại đơn khởi kiện đề ngày 08/9/2014 và ngày 19/8/2014, bản tự khai và biên bản hòa giải nguyên đơn ông NĐ_Nguyễn Văn Châu trình bày: Do có sự quen biết nên ông có cho bà BĐ_Dương Thị Nhi vay nhiều lần tiền, mỗi lần vay tiền bà BĐ_Nhi đều viết giấy nhận nợ. Ngày 23/7/2013 ông có cho bà BĐ_Nhi vay số tiền 4.500.000.000 đồng, có ký hợp đồng vay tiền tại Phòng công chứng, thời hạn vay 01 năm, lãi suất đôi bên thỏa thuận là 2%/ tháng (theo hợp đồng vay tiền này thể hiện lãi suất do đôi bên thỏa thuận), từ khi vay cho đến nay bà BĐ_Nhi không trả tiền lãi cho ông, việc ký hợp đồng vay tiền tại Phòng công chứng xuất phát từ các giấy vay tiền trước nên ông và bà BĐ_Nhi thống nhất cộng lại thành giấy vay tiền ký tại phòng công chứng và ông yêu cầu tính lãi từ ngày ký hợp đồng tại Phòng công chứng.
115/2013/DS-GĐT: Tranh chấp thừa kế Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1038
- 13
Năm 1968, cụ Vy chết; ông và cụ Nguyễn Thị Tất đồng ý cho bà BĐ_Nguyễn Thị Châu (là em cửa ông) dựng nhà ở tạm trên một phần đất, nhưng sau đó bà BĐ_Châu chiếm toàn bộ nhà đất nêu trên. Năm 1994, được sự ủy quyên của cụ Tât, ông đã khởi kiện yêu cầu bà BĐ_Châu trả lại nhà đất và tại Quyết định số 67/QĐ ngày 29/10/1996, Tòa án nhân dân thành phố H đình chỉ giải quyết vụ án với lý do: cụ Tất khởi kiện đòi lại nhà cho ở nhờ, nhưng đã chết. Sau đó, ông tiếp tục có đơn khởi kiện yêu cầu chia thừa kế tài sản nêu trên, nhưng do em trai ông là ông LQ_Nguyễn Đình Thức đang ở nước ngoài nên Tòa án nhân dân tỉnh TTH tạm đình chỉ giải quyết vụ án. Đến ngày 08/11/2006, Tòa án nhân dân tỉnh TTH có thông báo tiếp tục giải quyết vụ án. Ông yêu cầu chia thừa kế tài sản của bố mẹ ông để lại theo quy định của pháp luật.