cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

238/2014/DS-GĐT: Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 774
  • 10

Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà

11-06-2014

Nguyên đơn ông NĐ_Trần Tuấn Vũ, bà NĐ_Nguyễn Vũ Thúy Dung cùng trình bày: Do cần mua nhà để ở, ông bà có thỏa thuận mua bán căn nhà số 62 đường GX, khu phố 11, phường BHH A, quận BT, thành phố HCM của vợ chồng ông BĐ_Phạm Tấn Sinh, bà BĐ_Ngô Thị Kim Loan. Hai bên đã ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất có tài sản gắn liền với đất là căn nhà số 62 đường GX, khu phố 11, phường BHH A, quận BT, thành phố HCM có công chứng sổ 30619 quyển số 11/TTCC-SCC/HĐGD ngày 09/11/2009 tại Phòng công chứng số 5, thành phố HCM với giá chuyển nhượng là 250.000.000 đồng. Ông bà đã giao đủ tiền cho ông BĐ_Sinh bà Liên và đã hoàn tất thủ tục đăng bộ sang tên, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có tài sản gắn liền với đất số AD 248822, trang bổ sung ngày 20/11/2009 của Ủy ban nhân dân quận BT.


237/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 536
  • 8

Tranh chấp quyền sử dụng đất

11-06-2014

Theo đơn khởi kiện ngày 7/3/2007 và các lời khai của ông NĐ_Phạm Văn Thanh trình bày: Nguồn gốc diện tích đất 724m2 đang tranh chấp là của chị gái ông tên Phạm Thị Bích Lựu mua của ông Lâm Minh Trung năm 1997. Năm 1999, bà Lựu được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Năm 2001, bà Lựu chuyển nhượng lại cho ông và ông đã làm thủ tục sang tên xong. Sau khi mua ông đã quản lý đất, trồng rau, làm lều nuôi vịt. Do bị ô nhiễm nên năm 2003 ông không nuôi vịt nữa, lều vịt tự sập đổ. Đất của ông có một mặt tiếp giáp với tường nhà máy nước đá Quốc Hương do bà BĐ_Trần Thị Hà là chủ. Năm 2004, bà BĐ_Hà đục tường nhà máy cho đổ đất vào diện tích đất của ông. Ông đã có đơn ngăn chặn gửi Ủy ban nhân dân phường, thành phố và tỉnh nhưng không được giải quyết. Nay ông yêu cầu bà BĐ_Hà trả đất để ông sử dụng, ông sẽ trả tiền san lấp theo định giá cho bà BĐ_Hà.


229/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 384
  • 6

Tranh chấp quyền sử dụng đất

10-06-2014

Theo đơn khởi kiện và những lời trình bày, nguyên đơn bà NĐ_Nguyễn Thị Thanh và ông NĐ_Nguyễn Đình Linh trình bày: Năm 1983, vợ chồng ông NĐ_Nguyễn Đình Linh, bà NĐ_Nguyễn Thị Thanh thuê một căn nhà diện tích 36m2 của Nhà nước tại 138 TV (nay là số 01 TV). Khi đó, xung quanh nhà là đất trống nên hai vợ chồng ông bà đã khai phá thêm đất xung quanh, tổng diện tích đất mà ông bà sử dụng là 499m2. Khoảng từ năm 1985, ông NĐ_Nguyễn Đình Linh, bà NĐ_Nguyễn Thị Thanh xây dựng một căn nhà cạnh ngôi nhà thuê của Nhà nước. Năm 1987, ông NĐ_Nguyễn Đình Linh, bà NĐ_Nguyễn Thị Thanh xây tiếp một phòng rộng khoảng 30m2 trên phần đất khai phá, giáp với đất hàng xóm. Việc xây dựng có làm đơn xin phép.


228/2014/DS-GĐT: Tranh chấp thừa kế Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 2093
  • 37

Tranh chấp thừa kế

10-06-2014

Cha mẹ của bà là cụ Nguyễn Văn Thái (chết năm 1988) và cụ Dương Lan (chết năm 2002) sinh được ba người con chung gồm NĐ_Nguyễn Thị Vũ, LQ_Nguyễn Thị Bình và BĐ_Nguyễn Ngọc Đương. Sinh thời, cha mẹ bà khai khẩn và sử dụng 02 phần đất gồm: 04 công đất ở khu vực 6 phường HT và 16 công đất cùng 01 căn nhà gỗ mái tole có diện tích 145m2 tọa lạc tại số 44/4 khu vực Thạnh Mỹ, phường LB, quận CR, thành phố CT. Năm 1974, cụ Thái và cụ Lan đã chia đất cho các con như sau: bà NĐ_Vũ được 04 công đất tọa lạc tại HT - CR; bà LQ_Bình được 04 công tại Thạnh Mỹ - CR (nhưng sau đó cụ Lan lấy tại 01 công cho người cháu là Nguyễn Thị Út) và bà BĐ_Đương được 04 công đất tại Thạnh Mỹ - CR (nhưng sau đó cụ Lan lấy lại 01 công cho người cháu là Nguyền Thị Út).


227/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 511
  • 5

Tranh chấp quyền sử dụng đất

10-06-2014

Nguyên đơn ông NĐ_Cao Văn Khoa, bà NĐ_Lâm Thị Ngân trình bày: Năm 1966, ông bà có nhận chuyển nhượng của ông Huỳnh Bỉnh Họt 02 miếng đất, ông Họt còn lại 01 miếng đất cặp ranh phần đất đã chuyển nhượng, ranh đất giữa ông bà và ông Họt là một cái đường mương, phần lòng mương khoảng 04m, bờ khoảng 02m là của ông bà nhưng ông bà và ông Họt sử dụng chung. Ông bà và ông Họt có giao kết nếu ông Họt chuyển nhượng đất cho người khác thì phải trả lại cho ông bà diện tích đất đường mương và bờ. Năm 1969, do chiến tranh nên gia đình ông bà và ông Họt đều bỏ đi, đến năm 1975 ông bà trở về canh tác trên mảnh đất đã nhận chuyển nhượng của ông Họt, còn phần đất của ông Họt thì ông BĐ_Ong Phát Quân sử dụng. Thời gian này ông bà và ông BĐ_Quân đều không đề cập đến ranh đất. Đến năm 1978, ông bà và ông BĐ_Quân mỗi người sử dụng một mương bến khác nhau nên không còn sử dụng chung cho đến hôm nay.