cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

160/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 240
  • 5

Ly hôn

20-07-2006

Về tài sản chung: Hai bên khai không thống nhất. Phía chị Ngọc cho rằng vợ chồng tạo lập được căn nhà mái tole vách tường nền gạch trên mảnh đất thổ cư, một tủ quần áo, một tivi 14 inch, 14 thùng đựng hột vịt muối, một xe honda 67, số tiền mặt chị giữ 5.000.000 đồng cho chị Trương Bích Thủy mượn 3.000.000 đồng cho anh Trương Thanh Dân mượn 560.000 đồng. Khi đi chị có mang theo một tủ quần áo, một thùng đựng hột vịt muối và 5.000.000 đồng.


153/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1997
  • 52

Tranh chấp ranh giới giữa các bất động sản liền kề

18-07-2006

Theo ông NĐ_Toản trình bày: nguồn gốc đất của cha mẹ ông là Đỗ Văn Phiện và Nguyễn Thị Nhiễm cho ông vào năm 1994, nhưng trước đó cha mẹ ông có đồng ý cho một số hộ vào cất nhà ở nhờ một phần diện tích đất trong đó có hộ của ông BĐ_Lê Văn Hưu. Năm 1995 ông BĐ_Hưu đã viết cam kết ở nhờ nhà ông NĐ_Toản với điều kiện không được nới rộng thêm, không được tùy tiện sang nhượng cho người khác đến ở mà không thông qua ông NĐ_Toản. Năm 1995 ông NĐ_Toản trồng cây, đào ao trên phần đất còn lại của thửa đất. Năm 2000 gia đình ông NĐ_Toản đã kê khai và được ủy ban nhân dân huyện HN cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có tổng diện tích là 2.971m2 , trong đó có thửa 238 là thửa các hộ đang ở nhờ. Đến năm 2003 gia đình ông Cường sửa chữa lại nhà đã lấn vào phạm vi đất của ông NĐ_Toản. Nay ông NĐ_Toản yêu cầu vợ chồng ông BĐ_Hưu di dời nhà để trả lại diện tích 4,6m X 11,5m = 52 9m2 đất


149/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 218
  • 8

Tranh chấp quyền sử dụng đất

17-07-2006

Theo đơn khởi kiện ngày 18/3/2005, nguyên đơn trình bày: tháng 1/1996 ông NĐ_Vũ Đình Lâm làm đơn xin cấp đất xây dựng nhà ở. Ngày 24/8/1996 được ủy ban nhân dân xã Hòa Khánh xác lập hồ sơ giao đất tại bản đồ số 5, thửa 291, diện tích 200m2 do ông Dương Thành Thị - Chủ tịch xã ký đóng dấu. Sau đó, ông NĐ_Lâm làm ngôi nhà cấp 4, trồng trụ rào bảo vệ bằng kẽm gai, đóng giếng khoan trên diện tích đất được cấp nhưng chưa đăng ký quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất. Năm 2000, vợ chồng ông BĐ_Nguyễn An Nhật Tú đã đập phá hàng rào, giếng khoan để xây móng đá hộc và lấn chiếm phần đất của ông NĐ_Lâm khoảng 82m2.


17/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1743
  • 30

Tranh chấp quyền sở hữu tài sản

05-07-2006

Cuối năm 1979, bà đã giao dịch với bà Đặng Thị Nga để mua nhà 72 phố Lò Đúc, nhưng do bà không đủ tiền mua toàn bộ tầng 1, nên đã rủ bà LQ_Vũ Thị Luyến là mẹ chị BĐ_Lê Thị Sóng mua chung, giá nhà là 7.500đ, mỗi bên 1/2 là 3.750đ và 1/2 tiền thuế là 750đ, bà đã đưa số tiền đó cho bà Nga tại 31 phố BT. Sau đó bà đã đi làm thủ tục sang tên trước bạ và chuyển đồ đạc đến ở 72 phố Lò Đúc vào ngày 26/5/1980; tháng 8/1980 khi bà đi vắng, chị BĐ_Sóng đã phá khoá cửa nhà bỏ đồ của bà ra ngoài.


16/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 557
  • 7

Tranh chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất

05-07-2006

Trước đây, cụ Nguyễn Công có xây dựng một khu nghĩa địa tại thôn Bái Ân, xã NĐ, huyện TL, thành phố HN (nay là ngách 3 ngõ 191, tổ 9, phường NĐ, quận CG, thành phố HN). Khu nghĩa địa rộng 2185 m2 có cổng trước, cổng sau, tường rào bao quanh. Trong khu nghĩa địa có: 1 nhà để thờ cúng diện tích khoảng 27m2, 1 nhà văn bia khoảng 8m2 và 22 ngôi mộ. Cụ Nguyễn Công chết năm 1947 không để lại di chúc. Năm 1955, cụ Lý Thị Mùi (vợ thứ 3 của cụ Công) có thuê bà Nguyễn Thị Hội trông coi khu nhà thờ và nghĩa địa (không có hợp đồng bằng văn bản).