cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

377/2014/DS-GĐT: Tranh chấp ranh giới giữa các bất động sản liền kề Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 852
  • 5

Tranh chấp ranh giới giữa các bất động sản liền kề

18-09-2014

Tại đơn khởi kiện ngày 01/12/2009, đơn khởi kiện bổ sung ngày 01/4/2010, và các lời khai trong quá trình hòa giải cũng như phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm, nguyên đơn NĐ_Nguyễn Long Sinh trình bày: Gia đình ông có sử dụng phần diện tích đất thuộc thửa 1070, tờ bản đồ số 1, đất tọa lạc tại thị trấn LV, huyện LV, tỉnh ĐT. Ông BĐ_Trần Long Bình có sử dụng phần đất liền kề với phần đất của ông, đất của ông với đất ông BĐ_Bình có một bờ đất thuộc về phần đất của ông. Trong quá trình sử dụng ông BĐ_Bình bao chiếm bờ đất có diện tích theo đo đạc thực tế là 60,7m2 để trồng cây và xây dựng nhà vệ sinh. Nay ông yêu cầu ông BĐ_Trần Long Bình tháo dỡ di dời các cây trồng và kiến trúc có trên phần đất đó để trả lại cho ông và xác định ranh đất giữa ông với ông BĐ_Bình từ đầu mốc M3 đến mốc M8 theo sơ đồ đo đạc ngày 16/5/2011


376/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 487
  • 4

Tranh chấp quyền sử dụng đất

18-09-2014

Nguồn gốc đất tranh chấp là ông, bà của bà để lại cho bà với diện tích 2.080m2 tọa lạc tại khóm 3, thị trấn CN, huyện CN, tỉnh CM. Phần đất này bà đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào năm 2003, khi ông bà để lại đất cho bà thì có đường mương chiều ngang mặt tiền 1,5m, chiều dài đến hậu 68m nằm trong quyền sử dụng đất do bà đứng tên với diện tích 2.080m2 (quyền sử dụng đất hiện nay không vay Ngân hàng). Bà không xác định phần đất chiều ngang mặt tiền và chiều ngang mặt hậu của bà là bao nhiêu, nhưng xác định phần ranh đất giữa bà và ông BĐ_Phấn mỗi người là ½ mương ranh. Vào khoảng năm 2001-2002 phía ông BĐ_Phấn có sên vuông để lắp đường mương lúc đó bà không có nhà. Khi bà về thì bà có hỏi ông BĐ_Phấn tại sao sên vuông mà đổ lên đất của bà, thì ông BĐ_Phấn trả lời là do đất nhiều quá không có chỗ đổ nên mới tràn qua mương ranh đất ông BĐ_Phấn và bà.


360/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 279
  • 3

Tranh chấp quyền sử dụng đất

16-09-2014

NHẬN THẤY Theo đơn khởi kiện ngày 15/10/2010 và trong quá trình giải quyết vụ án ông NĐ_Phạm Minh trình bày: Năm 1998 ông nhận chuyển nhượng của ông Trần Hữu Lượng một thửa đất có diện tích khoảng 27.000m2 tại thôn Đăk Soun, xã QT, huyện TĐ, tỉnh ĐN với giá 13.200.000 đồng. Sau khi nhận chuyển nhượng gia đình ông trồng cà phê. Năm 2002 ông chỉ cho BĐ_Phạm Trinh (là con ruột) khoảng 13.000m2 đất để anh BĐ_Trinh và vợ tự chăm sóc, thu hoạch cà phê, cây cối kiếm thu nhập chứ ông không có ý định cho đất hay trả tiền công chăm sóc mà chỉ là cho mượn đất. Do anh BĐ_Phạm Trinh đối xử với cha mẹ tệ bạc, không đồng ý cắt một phần đất trong diện tích ông cho mượn nhập vào phần đất liền kề của ông cho vuông thửa, cũng không trả 01 tạ cà phê mỗi năm cho cha mẹ như ông yêu cầu. Do đó, ông khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc anh BĐ_Phạm Trinh phải trả lại toàn bộ diện tích đất mà năm 2002 ông cho mượn cùng với 990 cây cà phê và 44 cây muồng, 01 căn nhà gỗ trên đất là tài sản chung của ông và vợ là bà LQ_Trần Thị Thân. Ông đồng ý trả lại 1/2 giá trị ao cá cho anh BĐ_Phạm Trinh là 3.500.000 đồng.


359/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 308
  • 3

Tranh chấp quyền sử dụng đất

16-09-2014

Theo bản án sơ thẩm thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Cụ NĐ_Bùi Thị Hoa khởi kiện đòi anh BĐ_Trần Văn Minh phải trả lại diện tích 120m2 đất trước năm 2001 là ao tại thửa số 237, tờ bản đồ số 29, loại đất lâu năm quả, bản đồ năm 2007 (bản đồ năm 2001 thể hiện tại thửa 51, tờ số 24) mang tên anh BĐ_Trần Văn Minh của xã ĐH, huyện KĐ, tỉnh HY. Quan điểm của cụ NĐ_Hoa xác định khoảng năm 1970 do sông lở không còn đất nên cụ đã sang thôn 6, xã ĐH mua lại đất của cụ Nguyễn Thị Khoản (cụ Khoản chuyển đi Tây Bắc nay đã chết), trong đó có cả phần đất (trước kia là ao) đang tranh chấp. Cụ NĐ_Hoa sử dụng đất và phần ao mua lại của cụ Khoản đến năm 2001, gia đình anh BĐ_Trần Văn Minh đổ đất san lấp lấn chiếm 2/3 ao với diện tích 120m2 xây tường bao giáp ngõ đi vào nhà. Cụ NĐ_Hoa đã đề nghị với cơ sở thôn để hòa giải yêu cầu anh BĐ_Minh không được đổ đất, nhưng anh Manh vẫn cố tình lấn chiếm.


199/DS-GĐT: Đòi quyền sử dụng đất và bồi thường tài sản trên đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 626
  • 3

Đòi quyền sử dụng đất và bồi thường tài sản trên đất

22-05-2014

Theo đơn khởi kiện ngày 28/01/2010, nguyên đơn là bà NĐ_Nguyễn Thị Thịnh trình bày: Bà xây dựng gia đình với ông Thọ là người cùng thôn, do ông Thọ là con trưởng nên ông Thọ, bà NĐ_Thịnh được vợ chồng cụ Ế, cụ Thơm (là chú thím của ông Thọ) cho mảnh đất có diện tích 820m2 thuộc mảnh bản đồ số 299 lập năm 1985; vợ chồng bà đã xây dựng nhà trên mảnh đất này và hàng năm nộp thuế sử dụng theo quy định. Năm 1983, bà đã cắt một phần mảnh đất (phía ven đê) cho anh BĐ_Nguyễn Văn Bình, chị LQ_Nguyễn Thị Thuận do anh Thành (là anh của anh BĐ_Bình) đã xin việc cho anh Anh (là con của bà NĐ_Thịnh), việc cắt đất này chỉ là thỏa thuận miệng, không có người làm chứng. Năm 1986 anh BĐ_Bình, chị LQ_Thuận đã xây dựng nhà trên mảnh đất bà NĐ_Thịnh nhượng cho (theo bản đồ 364 là thửa đất số 25 tờ bản đồ số 57 có diện tích 286m2); còn lại là của bà NĐ_Thịnh (thửa số 15 tờ bản đồ số 57 có diện tích 458m2).