115/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1263
- 28
Tranh chấp tài sản thuộc sở hữu chung vợ chồng
Bà Trần Thị Hiên kết hôn với ông Nguyễn Văn Hứa vào ngày 20/06/1969, đăng ký tại ủy ban nhân dân xã Hưng Tây. Quá trình chung sống đã có 03 con chung là Nguyễn Văn Minh, sinh ngày: 19/05/1970; Nguyễn Thị Nguyệt, sinh ngày: 07/05/1972; Nguyễn Văn Chinh, sinh ngày: 18/08/1976. Năm 1982 vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do tính tình không hợp, thiếu sự tôn trọng nhau, cũng năm 1982 ông Hứa phải đi thi hành án phạt tù về tội trộm cắp tài sản. Năm 1987, ông Hứa chung sống với bà Phan Thị Lục tại xóm Yên Vinh. Còn bà Hiên cũng chung sống với ông Nguyễn Văn Thái tại xóm Yên Hòa.
115/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 473
- 11
Bà Trần Thị Hiên kết hôn với ông Nguyễn Văn Hứa vào ngày 20/06/1969, đăng ký tại ủy ban nhân dân xã Hưng Tây. Quá trình chung sống đã có 03 con chung là Nguyễn Văn Minh, sinh ngày: 19/05/1970; Nguyễn Thị Nguyệt, sinh ngày: 07/05/1972; Nguyễn Văn Chinh, sinh ngày: 18/08/1976. Năm 1982 vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do tính tình không hợp, thiếu sự tôn trọng nhau, cũng năm 1982 ông Hứa phải đi thi hành án phạt tù về tội trộm cắp tài sản. Năm 1987, ông Hứa chung sống với bà Phan Thị Lục tại xóm Yên Vinh. Còn bà Hiên cũng chung sống với ông Nguyễn Văn Thái tại xóm Yên Hòa.
113/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 303
- 7
Theo đơn khởi kiện và lời khai của các nguyên đơn thì nguồn gốc diện tích đất 45.000m2 tọa lạc tại ấp Quyền Thiện, xã BBĐ, huyện TB là của cụ Phạm Văn Bình (ông ngoại của bà NĐ_Thùy, ông NĐ_Thuận và Bà BĐ_Sơn) khai phá từ thời Pháp thuộc nhưng đã bỏ hoang. Đến năm 1990 do không có đất sản xuất nên bà NĐ_Thùy, ông NĐ_Thuận làm đơn xin nhận lại phần đất trên để quản lý sản xuất và đã được hội đồng cấp đất cho nhận lại toàn bộ phần đất nói trên. Năm 1993 ông NĐ_Thuận, bà NĐ_Thùy cho vợ chồng ông BĐ_Tình, bà BĐ_Sơn mượn để sản xuất.
111/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1017
- 11
Tranh chấp ranh giới giữa các bất động sản liền kề
Theo đơn khởi kiện và lời khai của ông NĐ_Lê Thước trình bày: Đất của gia đình ông đang ở là của cha ông để lại, trước năm 1975 không ai ở, sau năm 1975 gia đình ông trở về quê và làm nhà ở tại đất này. Năm 1983 gia đình ông đã kê khai và năm 1996 được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, diện tích là 480m2, thuộc thửa 539, tờ bản đồ số 9. Đất của gia đình ông ở cạnh đất của ông BĐ_Lê Kim Thuyết. Ranh giới đất giữa hai gia đình là hàng cây sống và là đường thẳng, nhưng cách đây 5-6 năm (năm 2001) có một đoạn hàng rào cây bị chết, đôi bên đã rào bằng tre thay hàng cây để phân ranh giới. Năm 2001 ông BĐ_Thuyết xây chuồng heo đã lấn sang phần đất của gia đình ông, chỗ 5m, chỗ 1m. Nay ông yêu cầu ông BĐ_Thuyết dỡ tường trả đất cho ông.
108/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 429
- 10
Theo đơn khởi kiện ngày 8/3/2002 của ông Lê Văn Thanh (là bố của các nguyên đơn đã chết ngày 1/9/2004) và lời khai của ông Thanh cũng như các thừa kế của ông Thanh trình bày: Năm 1973 ông Thanh có mua một phần đất có diện tích 2.300m2 tại ấp AT A, xã MTA, thị xã BT, tỉnh BT của các đồng thừa kế cùng hàng với bà NĐ_Nguyễn Thị Quốc là vợ của ông Thanh nhượng lại. Trên phần đất này trước đây cha mẹ vợ ông Thanh có cho cụ Đặng Văn Chôm (là cha của ông BĐ_Đặng Văn Đoán) ở nhờ khoảng 200m2, khi ông Chôm chết, ông BĐ_Đoán tiếp tục ở và còn lấn thêm. Ông Thanh đã làm thủ tục đăng ký kê khai và được ủy ban nhân dân tỉnh BT cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 1/9/1994 với tổng diện tích là 2.433m2 trong đó có phần diện tích 227.3m2 mà gia đình ông BĐ_Đoán đang sử dụng, ông Thanh đã chết nên các thừa kế của ông Thanh tham gia tố tụng tại giai đoạn phúc thẩm vẫn giữ yêu cầu ông BĐ_Đoán phải trả lại cho các thừa kế phần đất mà ông BĐ_Đoán đang sử dụng.