509/2013/ DS-GĐT: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 476
- 10
Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Bà NĐ_Bùi Thị Vân có chồng là ông Bế Văn Đàn. Ông Đàn và bà NĐ_Vân có con chung là NĐ_Bế Thành Cần sinh năm 1988. Ngày 23/11/1994, ông Bế Văn Đàn chết không để lại di chúc. Tháng 8 năm 1994, vợ chồng bà NĐ_Bùi Thị Vân đã góp tiền mua chung với ông Nguyễn Trọng Liệu, bà Nguyễn Thị Mai Lâm và ông Hà Huy Sung một thửa đất tại đội 3, thôn PM, xã MĐ, huyện TL, thành phố HN diện tích 186m2. Mảnh đất của bà NĐ_Vân là thửa số 38 (3) có diện tích 41m2 đất ở và 4,4m2 đất làm ngõ đi chung với 03 hộ trên. Năm 2001, bà NĐ_Vân đã xây dựng 01 nhà cấp 4 có diện tích 16m2, công trình phụ có diện tích 10 m2 và tường báo cáo khoảng 1m, giếng khoan trên đất.
144/2013/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sở hữu nhà Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 473
- 9
Năm 1994 ông bà có gửi về cho bà BĐ_Trương Thị Lệ Nàng (chị của bà NĐ_Thanh) số tiền là 60.000 USD và người bạn tên Olivier Stream cùng gửi 125.000 USD để mua căn nhà số 237 PNL, quận T, thành phố HCM để bà BĐ_Nàng xây dựng làm khách sạn. Đến năm 1996, bà NĐ_Thanh quyết định về Việt Nam để sinh sống nên có gửi tiếp cho bà BĐ_Nàng số tiền 165.210 USD để mua căn nhà số 221 PNL, phường PNL, quận T, thành phố HCM và nhờ bà BĐ_Nàng đứng tên giùm. Bà NĐ_Thanh được biết căn nhà trên bà BĐ_Nàng mua lại của ông Nguyễn Tấn Phát và bà Võ Thị Ngọc Hòa với giá 405 lượng vàng SJC, hiện nay cả ông Phát và bà Hòa đã chết, các con ông Phát và bà Hòa ở đâu bà không rõ. Năm 2000, bà BĐ_Nàng và ông NĐ_Hà xây dựng căn nhà 221 PNL, phường PNL, quận T, thành phố HCM thì bà NĐ_Thanh có gửi về số tiền là 20.000 USD để xây dựng khách sạn. Cả hai khách sạn đều do bà BĐ_Nàng kinh doanh, quản lý.
141/2013/GĐT-DS : Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 488
- 5
Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Ngày 10/8/1996, sau khi thỏa thuận thống nhất, cụ Nguyễn Thị Út đã đồng ý ký (lăn tay) vào 2 “Tờ hợp đồng xin được chuyển quyền sử dụng đất” có nội dung là cụ chuyển nhượng cho ông 500m2 đất và cho bà LQ_Trần Cẩm Hương 500m2 đất. Hợp đồng này được ủy ban nhân dân xã xác nhận ngày 27/3/1997. Hai phần đất này thuộc 1000m2 đất lúa mạng số thửa 375 tờ bản đồ số 6 xã BTĐ, huyện BC do cụ Út đứng tên trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp ngày 15/7/1996. Tuy nhiên, ông và bà LQ_Hương không trực tiếp ký hợp đồng này với cụ Út mà do ông LQ_Nguyễn Ngọc Dung đứng ra làm. Lý do ông LQ_Dung đứng ra làm hợp đồng giữa cụ Út và ông, bà LQ_Hương là trước đó ông LQ_Dung đã nhận chuyển nhượng 1000m2 đất này của cụ Út với giá 220 chỉ vàng 24k vào ngày 6/5/1996 và 11/11/1996 (hai bên có lập 2 bản hợp đồng kinh tế) nhưng chưa thực hiện xong hợp đồng thì ông LQ_Dung sang nhượng lại cho ông và bà LQ_Hương, với giá 370 chỉ vàng, nên ông LQ_Dung làm tắt hợp đồng từ cụ Út sang cho ông và bà LQ_Hương.
448/2013/DS-GĐT : Yêu cầu chia tài sản chung Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 586
- 9
Ngày 03 tháng 02 năm 2012, các ông, bà LQ_Dư Ngọc Ninh̀, LQ_Dư Thị Hương̀, LQ_Dư Hồng Hiếù, LQ_Dư Ngọc Đương̀, LQ_Nguyễn Thị Thủỳ, LQ_Dư Hồng Linh̀, LQ_Dư Thị Trung̀, LQ_Dư Kim Bình, LQ_Trương Thị Mẫǹ có đơn khiếu nại cho rằng quyết đinh công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 06/2010/QĐST-DS ngày 10/9/2010 của Tòa án nhân dân tỉnh TǸ, ghi nhận các đương sự khác không có tranh chấp là hoàn toàn không đúng với thực tế tại phiên tòa và hoàn toàn không đúng với yêu cầu của các ông bà, bởi ngay từ khi khỏi kiện cũng như tại các buổi hòa giải, các ông, bà đều có yêu càu Tòa án giải quyết buộc bị đơn là ông BĐ_Dư Văn Minh chia phần đất của cha mẹ là cụ Dư Văn Hỏi, cụ Lê Thị Năm chết để lại.
95/2013/DS-GĐT: Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 402
- 7
Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà
Ngày 14/01/1971, vợ chồng ông Võ Sỹ Thảng bán cho bà căn nhà và 1.049m2 đất tại 17 CBQ, phương Phú Hiệp, thành phố Huế (sau này đổi thành số 25 CBQ). Sau khi mua nhà, bà không trực tiếp quản lý mà ở Sài Gòn. Bà đã giao giấy tờ và nhà đất cho cha bà là cụ Dương Văn Bang quản lý và ở cùng vợ chồng cô ruột là cụ Dương Thị Huệ, cụ Nguyễn Văn Thí. Tháng 5/1979, bà sang Mỹ định cư, không ủy quyền cho ai quản lý nhà này. Cụ Bang chết năm 1980. Vợ chồng cụ Huệ tiếp tục quản lý, trông coi nhà. Bà đi Mỹ một thời gian thì được tin cha bà chết, bà không nhận được thư từ gì về ngôi nhà và tin tưởng đã có vợ chồng cụ Huệ trông nhà hộ rồi.