92/2015/DSST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1774
- 53
Nguồn gốc căn nhà số 26/3B ấp CC, xã AK, huyện TĐ, Thành phố HCM, nay là 26/3B LĐC, phường AK, Quận X, Thành phố HCM, có diện tích là 87,5m2 là do ông BĐ_Phan Tấn Liêu và bà BĐ_Nguyễn Thị Nghiệp tạo lập. Đến năm 1990, vợ chồng ông BĐ_Liêu và bà BĐ_Nghiệp định cư tại Hoa Kỳ. Trước khi xuất cảnh, ông BĐ_Liêu và bà BĐ_Nghiệp bán căn nhà nêu trên cho bà vào tháng 7/1990 với giá là 20 lượng vàng SJC. Do không đủ tiền nên bà đã vay mượn của các anh chị em là ông LQ_Phan Tấn Thái, ông LQ_Phan Tấn Sông và bà LQ_Phan Thị Kim Kiệm mỗi người là 5 lượng vàng SJC, vì là anh em ruột nên tin tưởng không làm giấy vay mượn. Ông BĐ_Liêu và bà BĐ_Nghiệp đã làm giấy cam kết được chính quyền địa phương xác nhận ngày 26/8/1990 với nội dung không còn sở hữu bất động sản nào tại Việt Nam và khẳng định căn nhà nêu trên là của bà. Do thời điểm đó không làm giấy chủ quyền được nên giữa bà, ông BĐ_Liêu và bà BĐ_Nghiệp có làm tờ ủy quyền và giao toàn bộ bản chính giấy tờ nhà cho bà. Khi giao dịch, các bên đều biết nhà và đất thuộc diện quy hoạch lộ giới nên đồng ý chấp hành theo quyết định của nhà nước.
1329/2015/HNGĐ-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1900
- 19
Ông NĐ_Lương Ngọc Tánh và bà BĐ_Lâm Thu Khuyên kết hôn hợp pháp và Ủy ban nhân dân Quận 3, Thành phố HCM cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 07 quyển số 01 ngày 08/01/1994. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc, đến năm 2005 thì bắt đầu có dấu hiệu bất hòa và thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Năm 2007 bà BĐ_Khuyên tự ý làm hồ sơ đi Anh quốc và bỏ đi đến nay không về. Hơn 01 năm nay bà BĐ_Khuyên cũng không còn liên lạc về. Ông được biết bà BĐ_Khuyên đã quyết định bỏ chồng chọn cuộc sống riêng nên ông yêu cầu ly hôn với bà BĐ_Khuyên để chấm dứt sự ràng buộc về mặt pháp lý giữa hai bên.
917/2015/HN-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 673
- 20
Yêu cầu xác định cha cho con
Theo đơn khởi kiện và bản tự khai của ông NĐ_Phu Phúc trình bày: Ông và bà BĐ_Đoàn Thị Kim Lộc có tìm hiểu, quen biết nhau vào khoảng năm 2005. Ông đã nhiều lần về Việt Nam chơi, du lịch và quyết định tiền tới hôn nhân với bà BĐ_Lộc. Năm 2006 ông về Việt Nam ở cùng bà BĐ_Lộc một thời gian thì được bà BĐ_Lộc cho biết là có thai. Do ông và bà BĐ_Lộc chưa đủ hồ sơ nên chưa thể đăng ký kết hôn với nhau. sau đó, do công việc ngày 06/10/2007 ông xuất cảnh về Mỹ.
716/2015/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1789
- 28
Theo đơn khởi kiện ngày 16/4/2007, các lời khai ông Lưu Chí Dũng là đại diện theo ủy quyền cho bà NĐ_Nguyễn Thị Cẩm và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông LQ_Nguyễn Kim Mong trình bày: Căn nhà 6/3 BTX, Phường X, quận TB, Thành phố HCM, nguồn gốc căn nhà này là của ông Nguyễn Văn Tấn (chết 1978). Ông Tấn có 04 người con: NĐ_Nguyễn Thị Cẩm, LQ_Nguyễn Văn Niên, Nguyễn Văn Lạc, LQ_Nguyễn Kim Mong. Hiện nay, bà NĐ_Cẩm (chết 2011), ông Lạc (chết 1990 hoặc 1991). Trước đây bà NĐ_Cẩm ủy quyền cho ông nhưng năm 2011 bà NĐ_Cẩm chết. Nay ông LQ_Mong có ủy quyền cho ông yêu cầu: ông BĐ_Cung là con của bà Lê Xuân Hoa trả lại căn nhà trên. Trước đây ông Tấn có cho thuê không biết có hợp đồng hay không nhưng bà Hoa có kê khai năm 1977. Với tiền thuê 500 đồng/1 tháng tiền chế độ cũ, không có thế chân, cho thuê không có thời hạn, không lấy tiền nhà từ sau giải phóng năm 1975. Năm 1983 bà Hoa chết nguyên đơn đòi lại nhà.Tình trạng nhà cho thuê lúc đó là nhà cấp 4: nhà tường, mái tôn, diện tích 36 m2.
630/2015/DSST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1804
- 31
Theo đơn khởi kiện ngày 15/3/2010 và lời khai tại Tòa án, nguyên đơn - bà NĐ_Hứa Bửu Liêm trình bày như sau: Nhà và đất tọa lạc tại số 455/39 Bis A ADV, Phường X, Quận Y, Thành phố HCM là của mẹ bà là bà Hứa Anh mua của bà Phạm Thị Giá vào năm 1967 bằng giấy tay (đã thất lạc). Thời điểm đó, bà đứng tên hộ khẩu gia đình. Năm 1975, bà chuyển hộ khẩu về ở chung với mẹ tại số 339 đường 3/2, Quận Y để chăm sóc mẹ bà. Năm 1976, bà làm đơn bảo lãnh cho ông Lưu Quốc Minh là em vợ ông LQ_Ngô Vĩnh Xanh (em trai bà) nhập hộ khẩu vào căn nhà này, gia đình ông Minh cư ngụ từ đó đến nay. Việc cho ông Minh ở nhờ không được thể hiện bằng văn bản nhưng ông Minh có nói khi nào có nhà thì trả lại. Năm 1977, khi kê khai nhà đất, ông Minh khai căn nhà này là của bà Hứa Anh. Năm 1992, bà làm thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sở nhà và quyền sử dụng đất. Ngày 21/8/2000, bà Hứa Anh được LQ_Ủy ban nhân dân Thành phố HCM cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 9051/2000. Hiện ông Minh đã chết, các con của ông Minh đang sử dụng nhà và không trả lại cho bà. Nay bà khởi kiện yêu cầu ông BĐ_Lưu Cẩm Đào và những người đang ở trong căn nhà trả lại nhà đất số 455/39 Bis A ADV, Phường X, Quận Y, Thành phố HCM cho mẹ bà có bà là người đại diện các đồng thừa kế.