01/2015/HC-ST Sơ thẩm Hành chính
- 1322
- 16
Khiếu kiện quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng
Về nội dung, Quyết định 7581/QĐ-UBND ngày 20/12/2013 và Quyết định chi trả bổ sung số 1702/QĐ-UBND ngày 26/3/2014 căn cứ vào Quyết định số 2725/QĐ-UBND ngày 16/6/2006 và Quyết định 3453/QĐ-UBND ngày 20/8/2003 của UBND THÀNH PHỐHCM, mà quyết định 3453/QĐ-UBND qui định giao đất đề xây dựng Đại học Quốc gia chứ không phải mở rộng Quốc lộ 1. Hơn nữa, Quyết định 3453/QĐ-UBND căn cứ vào Quyết định số 660 ngày 17/6/2003 của Thủ tướng chính phủ phê duyệt quy hoạch chi tiết xây dựng Đại học Quốc gia. Như vậy, căn cứ thu hồi đất là sai, và quyền lợi của bà NĐ_Hiền bị thiệt thòi.
02/2015/HCST Sơ thẩm Hành chính
- 1216
- 12
Khiếu kiện quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng
Ngày 13/9/2007, UBND thành phố HCM ban hành Quyết định số 841/QĐ-UBND về bán nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước và chuyển quyền sử dụng đất ở cho ông NĐ_Châu Minh Nhật tại căn nhà số 650 PVC, Phường 8, Quận X. Ngày 10/10/2007, ông NĐ_Châu Minh Nhật và LQ_Công ty quản lý kinh doanh nhà Anh Minh ký kết Hợp đồng mua bán nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước và chuyển quyền sử dụng đất ở số 455BT/HĐMBNƠ.1 có diện tích đất ở 326,04m2 (diện tích sử dụng riêng 203,97m2, diện tích sử dụng chung: 122,07m2), loại nhà biệt thự hạng 2, nhà phụ cấp 3, kết cấu nhà: tường gạch, khung, sàn bê tông cốt thép, căn hộ ở tầng 1 + 2 với giá bán là 481.323.407 đồng (đã bao gồm tiền sử dụng đất). Ông NĐ_Châu Minh Nhật đã thanh toán Toàn bộ tiền mua nhà và chuyển quyền sử dụng đất và đã hồn tất thủ tục nộp lệ phí trước bạ nhà, đất cùng ngày 10/10/2007 nhưng giấy chứng nhận QSHNỞvà QSDĐỞ không giao cho ông NĐ_Châu Minh Nhật. Đến năm 2012, đường PVC được nâng cấp mở rộng, trong đó nhà ông NĐ_Châu Minh Nhật thuộc diện bị giải tỏa một phần phía trước diện tích 13,97m2.
01/2015/HCST Sơ thẩm Hành chính
- 2292
- 40
Phần đất hộ gia đình ông NĐ_Trương Văn Ánh và bà NĐ_Trần Thị Thu Trinh sử dụng kế số 97/2 LCH, Phường 10, Quận X có nguồn gốc là của cha mẹ ông NĐ_Ánh là ông Trương Văn Nuôi và bà Phạm Thị Nhan thuê đất của ông Nguyễn Văn Tường với diện tích 34.900m2 từ năm 1954, dến 1985 ông Tường đăng ký quyền sử dụng đất theo Chỉ thị 299/TTg. Trong tổng diện tích đất nói trên thì có tổng diện tích đất 2.756m2 gồm đất ở và đất nông nghiệp ao hồ liền kề đất ở thì cha mẹ ông NĐ_Ánh cho ông NĐ_Ánh sử dụng từ 1980 ngay sau khi ông NĐ_Ánh cưới bà NĐ_Trinh. Sau khi ông Nuôi chết năm 2006 thì đến 2012 bà Nhan và các con trong đó có ông NĐ_Ánh thống nhất phân chia quyền sử dụng đất để mỗi người làm thủ tục hợp thức hóa quyền sử dụng đất theo vi bằng do Thừa phát lại lập thuộc một phần thửa 90, thửa 169, 170 tờ bản đồ số 2 - Theo tài liệu 299/CT-TTg, Tài liệu địa chính năm 2001 thuộc thửa 14- 15 tờ bản đồ 72. Gia đình ông NĐ_Ánh – bà NĐ_Trinh đã sử dụng ổn định, liên tục từ năm 1980 đến nay, chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất do nhà đất này bị qui hoạch treo .
71/2007/DS-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 728
- 18
Bà NĐ_Nguyễn Thị Ngạo và Ông Lê Văn Phu chung sống với nhau có 5 người con chung (chết 1 còn lại 5) là bà LQ_Lê Thị Hạo, LQ_Lê Thị Tẹo, bà LQ_Lê Thị Xòng, bà LQ_Lê Thị Mưa và ông BĐ_Lê Văn Đạo. Trước khi chung sống với nhau cả hai người đều có con riêng, bà NĐ_Ngạo có hai con riêng là LQ_Lê Thị Bê và Lê Văn Hổ (Ông Hổ đã chết có 8 người con là ông LQ_Thánh, bà LQ_Riêng, ông LQ_Tùng, ông LQ_Suỵt, ông LQ_Được, bà LQ_Rồng, ông LQ_Cường, bà LQ_Ưng). Ông Phu có hai con riêng là LQ_Lê Thị Sồng và Lê Thị B
15/2006/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 2138
- 38
Theo đơn khởi kiện của bà NĐ_Nguyễn Thị Kim Tuyền ngày 04/10/2004 và lời khai của người đại diện theo uỷ quyền của bà NĐ_Nguyễn Thị Kim Tuyền trình bày: Lô đất đang tranh chấp có nguồn gốc ông Lương Duy Ủy mua của bà Tôn Nữ Thị Phúc, ông Lương Duy Ủy qua đời từ năm 1968. Bà NĐ_Tuyền tiến hành làm thủ tục thừa kế căn nhà trên, cũng trong thời gian này bà NĐ_Tuyền cho ông Hoàng Hiệu ở nhờ, năm 1972 bà NĐ_Tuyền gửi nhà cho bà Nguyễn Thị Sinh trông coi giùm, cuối năm 1972 bà Sinh tự động cho bà Nguyễn Thị Cất ở nhờ một thời gian.