616/2013/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 2088
- 56
Tranh chấp hợp đồng thuê nhà và quyền sử dụng đất
Trong đơn khởi kiện và các lời khai của nguyên đơn, và tại phiên tòa nguyên đơn ông NĐ_Nguyễn Kim Hậu trình bày: Ngày 07 tháng 9 năm 2007 ông NĐ_Nguyễn Kim Hậu và bà LQ_Trần Thị Thanh Dung có ký hợp đồng thuê nhà và thuê quyền sử dụng đất với BĐ_Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Trúc theo đó ông NĐ_Hậu và bà LQ_Dung cho BĐ_Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Trúc thuê nhà và đất tại địa chỉ 226 Tỉnh Lộ X, khu phố 2, thị trấn CC, huyện CC, thành phố HCM (hợp đồng thuê nhà và quyền sử dụng đất được lập tại Phòng công chứng T, thành phố HCM ngày 07/9/2007, số công chứng 028475), thời hạn thuê 05 (năm) năm tính từ ngày 10/8/2007 đến hết ngày 10/8/2012, giá cho thuê hai năm đầu là 20.000.000đ (hai mươi triệu đồng)/tháng, từ năm thứ ba là 24.000.000đ (hai mươi bốn triệu đồng)/tháng, ông NĐ_Hậu và bà LQ_Dung nhận đặt cọc của BĐ_Ngân hàng TMCP Việt Trúc là 120.000.000đ (một trăm hai mươi triệu đồng).
1066/2013/HNGĐ-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1509
- 20
Tại đơn xin ly hôn lập ngày 13/5/2013 và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn là bà NĐ_Ngô Thị Kiều Oanh trình bày như sau: Bà và ông BĐ_Nguyễn Thái Tín xây dựng gia đình năm 2006, hai bên chung sống tự nguyện và có đăng ký kết hôn vào ngày 19/7/2007 tại Ủy ban nhân dân phường TT, quận TP, Thành phố HCM. Sau khi xây dựng gia đình, bà và ông BĐ_Tín chung sống hạnh phúc được hơn 01 năm. Đến năm 2008, hai bên thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do ông BĐ_Tín không quan tâm lo lắng cho gia đình, ông còn xúc phạm bà vô cớ. Bà có khuyên nhiều nhưng ông BĐ_Tín không nghe, từ đó mâu thuẫn ngày càng trầm trọng hơn. Do không thể chịu đựng nữa nên bà đã bỏ về nhà cha mẹ ruột để sinh sống từ năm 2009 cho đến nay. Nay bà cảm thấy không thể tiếp tục chung sống với ông BĐ_Tín được nữa do thời gian ly thân đã lâu, tình cảm không còn, không thể hàn gắn hạnh phúc nên bà yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với chồng tên BĐ_Nguyễn Thái Tín.
978/2013/HNGĐ-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1457
- 22
Trong đơn xin ly hôn nộp Tòa án ngày 02 tháng 8 năm 2013, biên bản về việc không tiến hành hòa giải được ngày 23 tháng 9 năm 2013 và tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn là bà NĐ_Ông Tú Linh trình bày: Bà và ông BĐ_Châu Văn Tính tự nguyện chung sống từ năm 2003, sau đó đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã PHĐ (huyện CC, thành phố HCM) cấp Giấy chứng nhận kết hôn ngày 04 tháng 3 năm 2005. Quá trình chung sống do không hợp nhau nên thường bất đồng quan điểm, gây gổ cãi vã nhau, mâu thuẫn gia đình ngày càng lớn không khả năng hàn gắn. Nhận thấy mục đích hôn nhân không đạt được, tình cảm vợ chồng không còn nên bà khởi kiện yêu cầu được ly hôn.
501/2013/DSST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 3439
- 126
Tranh chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất
Do quen biết, vợ chồng ông, bà NĐ_Tạ Công Hùng, LQ_Nguyễn Thị Tuyết Mai có ký Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 25674 quyển số 09 TP/CC-SCC/HĐGD ngày 16/9/2009 xác nhận của Phòng công chứng số X đối với ông BĐ_Mai Văn Kiên, bà BĐ_Nguyễn Thị Hồng diện tích 503,6m2 (có 58,6m2 đất ở) thửa số 41, tờ bản đồ 54 tọa lạc tại 157/4 ấp Trung, xã TTH, huyện CC, Thành phố HCM trị giá chuyển nhượng là 400.000.000 (bốn trăm triệu) đồng. Sau khi hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được công chứng ông NĐ_Tạ Công Hùng được LQ_Ủy ban nhân dân huyện CC cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BA 763080 vào sổ cấp số CH 27556.10.000003 ngày 22/01/2010.
497/2013/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 589
- 13
Trong đơn khởi kiện ngày 20 tháng 8 năm 2013 và biên bản hòa giải tại Tòa án ngày 19 tháng 9 năm 2013, nguyên đơn là bà NĐ_Dương Thị Diệu trình bày: Bà có tham gia dây hụi do bà BĐ_Nguyễn Thị Thúy tổ chức với hình thức tương trợ. Ngày 15/12/2012, bà BĐ_Thúy tuyên bố bể hụi và đã không hoàn trả cho bà tổng số tiền hụi mà bà đã đóng là 13.000.000 đồng. Vụ việc có đưa ra Ủy ban nhân dân xã hòa giải nhưng không thành vì vậy bà khởi kiện. Nhận thấy bà BĐ_Thúy hoàn cảnh cũng có khó khăn nên bà chỉ yêu cầu vợ chồng bà BĐ_Thúy hoàn trả cho bà 10.000.000 đồng tiền hụi, yêu cầu trả làm một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, không yêu cầu trả lãi. Bà không chấp nhận việc bà BĐ_Thúy và ông BĐ_Bá đề nghị chỉ trả cho bà 5.700.000 đồng và không chấp nhận việc xin trả dần. 300.000 đồng bà BĐ_Thúy trả góp cho bà bà đã trừ vào tiền nợ hụi nên bà chỉ đòi vợ chồng bà BĐ_Thúy trả cho bà 10.000.000 đồng. Do bận đi làm nên bà đề nghị Tòa án xét xử cho vợ chồng bà được vắng mặt.