51/2009/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1176
- 11
Theo đơn khởi kiện và các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn là ông NĐ_Nguyễn Tuân trình bày: Diện tích đất khoảng 4.293m2 hiện gia đình ông BĐ_Nguyễn Văn Nết, bà BĐ_Nguyễn Thị Hồng và bà BĐ_Nguyễn Thị Linh đang ở và canh tác là 01 phần trong tổng diện tích đất của ông ở thửa 63, 80, 81, tờ bản đồ số 15, ấp Phú Thạnh, xã MX, huyện TT, tỉnh BR - VT. Đất này ông nhờ vợ chồng bà LQ_Nguyễn Thị Sương và ông LQ_Phạm Văn Tình mua hộ từ năm 1992 và giao cho vợ chồng ông LQ_Tình trông coi. Sau đó ông LQ_Tình bà LQ_Sương làm giấy sang lại đất cho ông vào ngày 3.3.1992, có xác nhận của chính quyền địa phương. Năm 1994, bà LQ_Sương có cho vợ chồng ông BĐ_Nết, bà BĐ_Hồng mượn 30m2 đất để xây nhà ở, hẹn trong vòng 6 tháng sẽ trả (có làm giấy tay ngày 9.1.1994) nhưng khi đến hạn ông nhiều lần đòi lại đất mà vợ chồng ông BĐ_Nết không trả. Năm 1998, ông đã được UBND Huyện TT cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Năm 2002, LQ_Ủy ban nhân dân xã MX cấp nhà tình thương cho gia đình ông BĐ_Nết xây trên đất của ông. Đất đang tranh chấp với gia đình ông BĐ_Nết là tài sản riêng của ông, không liên quan đến vợ ông và vợ ông đã có văn bản xác nhận điều này.
45/2009/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1973
- 33
Nguyên đơn, bà NĐ_Nguyễn Thị Kim Phượng xác định yêu cầu khởi kiện như sau: Vào những năm 1998 - 1999, Bà có làm chủ 03 dây hụi và bà BĐ_Nguyễn Thị Kim (Mai) có tham gia chơi, cụ thể: Dây 1: Từ 15/6/1998 đến 15/8/1999 mở dây hụi 1.000.000 đồng/tháng, có 15 người tham gia. Bà BĐ_Kim hốt hụi và số tiền còn phải đóng cho Bà là 12.000.000 đồng nhưng không đóng. Dây 2: Từ 15/6/1998 đến 15/8/1999, hụi 1.000.000 đồng/tháng, có 15 người tham gia. Bà BĐ_Kim hốt hụi và số tiền còn phải đóng cho bà là 10.000.000 đồng nhưng không đóng. Dây 3: Từ 15/6/1998 đến 15/8/1999, hụi 2.000.000 đồng/tháng, có 15 người tham gia, Bà BĐ_Kim hốt hụi và số tiền còn phải đóng cho Bà là 20.000.000 đồng nhưng cũng không đóng.
44/2009/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 362
- 3
Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Do mối quan hệ lối xóm nên ngày 05/9/2005, bà NĐ_Hồng có cho bà BĐ_Lê Thị Hải vay số tiền là 420.000.000 (bốn trăm hai mươi triệu) đồng để mua đất và đáo hạn Ngân hàng trong thời gian là 03 tháng. Nhưng bà BĐ_Hải kéo dài 14 tháng mới thanh toán hết tiền vốn 420.000.000 đồng cho bà NĐ_Hồng vào ngày 29/10/2006, riêng tiền lãi chưa trả đồng nào. Cùng ngày 05/09/2005, bà BĐ_Hải vay thêm của bà NĐ_Hồng 400.000.000 (bốn trăm triệu) đồng, lãi 4%/tháng, thế chấp một giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên bà BĐ_Hải, đất toạ lạc tại Châu Đức, thời gian vay là 10 ngày. Khi vay chính bà BĐ_Hải viết “giấy vay nợ” và ký tên tại nhà bà NĐ_Hồng, thời gian ký vào buổi chiều khoảng 15 giờ 00’ đến 16 giờ 00’ ngày 05/09/2005 trong giấy có ghi góp mỗi ngày 2.000.000 (hai triệu) đồng. Từ ngày vay cho đến nay bà BĐ_Hải không trả cho bà NĐ_Hồng đồng vốn và lãi nào.
33/2009/HN-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 417
- 3
Trong đơn khởi kiện để ngày 30-05-2006, bản tự khai ngày 22-12-2006, biên bản hòa giải có tại hồ sơ phiên tòa, nguyên đơn là chị Thái Thị Loan trình bày: Giữa chị với anh Lê Minh Tuấn qua thời gian tìm hiểu, anh chị tổ chức đám cưới và đăng kí kết hôn tại UBND phường Thống Nhất thành phố PL vào năm 1991 trong quá trình chung sống chị và anh Tuấn xảy ra nhiều mâu thuẫn. Nhiều lần anh Tuấn uống rượu về hành hạ và đánh đập chị có lần chị phải đi cấp cứu. Nhưng vì nghĩ đến các con chị phải nhịn nhục, nhưng trong ba năm trở lại đây anh lại càng đánh đập chị nhiều hơn, nay chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nữa, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Chị yêu cầu được ly hôn.
23/2009/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1210
- 12
Theo án sơ thẩm, Luật sư PND - người bảo vệ quyền lợi cho phía nguyên đơn trình bày: Chị Nguyễn Thị Hòa và anh Nguyễn Văn Sa tự nguyện sống chung với nhau như vự chồng vào năm 1992 và có đăng ký kết hôn năm 2002 tại Ủy ban nhân dân xã TA, thành phố MT. Thời gian đầu chung sống có hạnh phúc, đến đầu năm 2005 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm, anh Sa nhậu nhẹt không lo làm ăn, không lo kinh tế gia đình. Chị Hòa nhiều lần khuyên can, nhưng anh không nghe mà còn đánh đập chị Hòa nhiều lần, hai người đã ly thân từ tháng 07/2005 đến nay. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, mâu thuẫn kéo dài trầm trọng, không thể giải quyết được, nên chị Hòa xin được ly hôn với anh Sa.