482/2013/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1476
- 19
Tranh chấp tiền đặt cọc thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Ngày 24/3/2011, giữa ông và bà BĐ_Lê Thị Xuân Soa (mẹ của ông NĐ_Nguyễn Thanh Tú) có ký kết một “Hợp đồng mua bán đất” phần đất tọa lạc tại ấp 3, xã PVC, huyện CC, thành phố HCM mà bà BĐ_Soa nói rằng mua của Công ty cổ phần Đầu tư Xây dựng LT, giá là 100.000.000 đồng, vợ chồng ông đã đặt cọc trước 70.000.000 đồng và sau đó dọn vào để ở bán cà phê. Sau đó ngày 26/6/2011, ông lại ký lại bản hợp sang nhượng đất cũng với bà BĐ_Soa và cũng với giá là 100.000.000 đồng. Sau đó đến ngày 09/12/2011, ông cùng Ông BĐ_Tú và bà BĐ_Soa ký kết lại hợp đồng đặt cọc sang nhượng quyền sử dụng đất vì bà BĐ_Soa nói rằng đất này là của ông BĐ_Tú mua của Công ty cổ phần Đầu tư Xây dựng LT và vợ chồng ông đã trả tiếp cho bà BĐ_Soa và ông BĐ_Tú thêm 30.000.000 để đủ 100.000.000 đồng.
940/2013/HNGĐ-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1207
- 19
Tại đơn khởi kiện, bản tự khai nguyên đơn bà NĐ_Trần Thị Cẩm Thủy trình bày: Bà và ông BĐ_Lê Đoàn Thanh Tùng tự nguyện kết hôn vào năm 1998, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Hòa Phong, huyện TH, tỉnh PY. Sau khi kết hôn hai vợ chồng sống không hạnh phúc và hai vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, xung đột xảy ra do ông BĐ_Tùng thường hay đánh đập bà NĐ_Thủy. Do vậy bà NĐ_Thủy yêu cầu xin ly hôn với ông BĐ_Tùng. Về con chung: có 01 con chung tên là lê Trung Hiếu, sinh ngày 26/7/1999, hiện nay đang ở với ông bà ngoại. Bà NĐ_Thủy có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu ông BĐ_Tùng cấp dưỡng nuôi con.
70/BA/2013/HNGĐ-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 681
- 13
Không công nhận quan hệ vợ chồng
Bà NĐ_Hà và ông NĐ_Thi chung sống với nhau từ năm 1994, không có đăng ký kết hôn. Quá trình chung sống có 02 con tên: Nguyễn Thịnh Vũ sinh ngày 10/10/1994 và Trần Thị Thanh Xuân sinh ngày 22/12/1995. Hạnh phúc vợ chồng được thời gian dài, đến năm 2009 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm, tính tình không hòa hợp, đỉnh điểm là từ năm 2010 đến nay mâu thuẫn càng gay gắt dẫn đến việc, hai bên không còn chung sống với nhau, dù đã cố gắng hòa giải đoàn tụ nhưng vẫn không đạt kết quả như mong muốn. Xét thấy không còn khả năng để hàn gắn nên bà NĐ_Hà làm đơn mong Tòa giải quyết cho ly hôn với ông NĐ_Thi để trả lại tự do cho nhau và ổn định cuộc sống.
434/2013/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1814
- 47
Trong đơn khởi kiện ngày 20/8/2013, đơn khởi kiện bổ sung ngày 03/9/2013 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn là bà NĐ_Phạm Thị Tuyết trình bày: bà có tham gia chơi hụi do bà BĐ_Nguyễn Thị Linh làm chủ thảo. Bà có tham gia chơi 05 dây hụi, cụ thể: - 01 dây hụi 500.000 đồng, hụi khui ngày 05/8/2011; - 01 dây hụi 1.000.000 đồng, hụi khui ngày 05/11/2011; - 02 dây hụi 500.000 đồng, hụi khui ngày 20/9/2012; - 01 dây hụi 1.000.000 đồng, hụi khui ngày 15/10/2012; Cách thức chơi hụi là: Thành viên nào bỏ thăm cao (trả lãi cao) thì hốt hụi, không có quy định mức lãi cụ thể, bà BĐ_Linh có nghĩa vụ thu tiền về giao cho người hốt hụi, bà BĐ_Linh được người hốt hụi trả hoa hồng, hụi 500.000 đồng được hưởng 200.000 đồng, hụi 1.000.000 đồng được hưởng 300.000 đồng.
424/2013/DSST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 914
- 18
Tranh chấp hợp đồng mượn tài sản
Tại đơn khởi kiện ngày 07 tháng 7 năm 2011 và tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Lưu Văn Chức trình bày: Từ tháng 02/2010 đến tháng 10/2010, bà NĐ_Hà có cho bà BĐ_Nguyễn Thị Vui mượn số tiền 624.000.000 đồng. Nay bà NĐ_Hà đề nghị Tòa án buộc bà BĐ_Nguyễn Thị Vui trả số tiền là 624.000.000 (sáu trăm hai mươi bốn triệu) đồng và lãi suất cơ bản của ngân hàng nhà nước tính từ ngày khởi kiện.