22/2006/DS-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 507
- 10
Bà NĐ_Nguyễn Ngọc Tuệ đang quản lý, sử dụng nhà đất tại số 455 đường TP, phường X, thành phố VT, tỉnh BR - VT. Theo Biên bản định giá tài sản ngày 30/3/2006 của Hội đồng định giá tài sản, do TAND thành phố VT quyết định thành lập, thì căn nhà này là nhà cấp 4 có diện tích xây dựng 41 m2, đơn giá 250.000 đồng/m2, tọa lạc trên diện tích đất 66,4 m2, đơn giá 7.000.000 đồng/m2 (BL 92, 93, 94). Khi bà NĐ_Tuệ tiến hành thủ tục hợp thức hoá quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở đối với nhà đất nêu trên thì bà BĐ_Võ Thị Tám tranh chấp, ngăn cản vì bà BĐ_Tám cho rằng diện tích đất này thuộc quyền sử dụng của bà BĐ_Tám.
56/2006/HN-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 366
- 8
Theo nội dung án sơ thẩm: Chị Tuyết và anh Thứ chung sống với nhau vào năm 1992, có làm đám cưới, không đăng ký kết hôn. Sống chung hạnh phúc đến năm 2000 thì xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân do anh Thứ cờ bạc, không lo lắng cho vợ con. Ngoài ra giữa chị Tuyết và mẹ chồng có mậu thuẫn với nhau. Chị Tuyết bỏ về nhà cha mẹ ruột sinh sống, anh Thứ có kêu về để chung sống nhưng chị Tuyết không đồng ý nên vợ chồng không còn sống chung từ 4/2000 cho đến nay, không ai tới lui. Nay chị Tuyết xin ly hôn, anh Thứ đồng ý.
10/2006/DS-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 654
- 7
Tranh chấp chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Năm 2004, bà NĐ_Nguyễn Thị Tý cùng các con của bà NĐ_Tý và bà BĐ_Phạm Thị Tuyết có lập Giấy chứng nhận mua bán có nội dung: Bà NĐ_Tý cùng các con của bà NĐ_Tý chuyển nhượng cho bà BĐ_Tuyết quyền sử dụng diện tích đất 40 m2, có lối đi chung rộng 1,2171, với giá 128 chỉ vàng 9999 (BL 11). Tuy nhiên, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AC 548699 ngày 20/7/2005 của UBND thành phố Vùng Tàu thì bà NĐ_Tý chuyển nhượng cho bà BĐ_Tuyết lô đất nêu trên thuộc thửa số 26509.28.318 tờ bản đồ số 28, toạ lạc tại số 8/12 NCT, phường X, thành phố VT, tỉnh BR - VT nhưng với diện tích là 43,7 m2, dư ra 3,7 m2 so với thoả thuận lại Giấy chứng nhận mua bán nêu trên. Và, theo Biên bản định giá của Hội đồng định giá tài sản do Toà án cấp sơ thẩm thành lập thì hiện nay bà BĐ_Tuyết sử dụng lô đất này là 42,6 m2, dư ra 2,6 m2 so với thoả thuận tại Giấy chứng nhận mua bán nêu trên.
03/2006/DS-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 428
- 9
Trong đơn khởi kiện ngày 26/12/2005, bản tự khai ngày 03/01/2006, đơn trình bày ngày 28/3/2006, đơn khởi kiện bổ sung ngày 19/5/2006 và các lời khai tiếp theo nguyên đơn bà NĐ_Vũ Thị Thoa trình bày như sau: Nguồn gốc diện tích đất 3.000m2 tọa lạc tại ấp LS, xã PH, huyện TT, tỉnh BR - VT, có tứ cận Đông giáp đất ông Thức, Tây giáp hồ nước, Nam giáp ruộng ông LQ_Tùng, Bắc giáp đường đi là của vợ chồng bà góp vốn cùng ông LQ_Đoàn mua của ông Nguyễn Kim Thanh với giá 2 chỉ 8 phân vàng 24K vào ngày 24/6/1990, trong đó bà góp 9 phần 4, ông LQ_Đoàn góp 1 chỉ 8 phần 6. Khi mua đất ông Thanh chưa có sổ đỏ, hai bên có làm giấy tay. Lúc đó ông LQ_Đoàn chưa có hộ khẩu nên để cho ông Trần Văn Hùng (Hán) và chồng bà là LQ_Trần Văn Tùng đứng tên mua đất. Sau khi mua, hai bên thống nhất tạm chia ngang để làm ruộng, phần của vợ chồng bà 01 sào (1.000 m2), phần ông LQ_Đoàn 02 sào (2.000 m2), ông LQ_Đoàn canh tác cùng ông BĐ_Tảo. Nay bà yêu cầu buộc ông BĐ_Tảo trả lại diện tích đất đang canh tác cho ông LQ_Đoàn, để nhập vào diện tích đất của bà chia theo chiều dọc.
115/2006/DS-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 2666
- 115
Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Căn nhà số 115/46 LL, phường X, TPVT do ông BĐ_Lê Đức Xong xây dựng vào năm 1993, loại nhà cấp 4. Căn nhà số 115/46/2 LL, phường X TPVT do ông NĐ_Nguyễn Văn Biệt xây dựng vào năm 1993, nhà cấp 4, cột và tường xây gạch, diện tích xây dựng 3m X 4,2m có gác gỗ có 1 vách tường sử dụng nhờ nhà số 115/46, LL phường X, TP VT. Năm 1997 ông NĐ_Biệt bà LQ_Thư xây nối tiếp ra phía trước, diện tích xây dựng 10,38m2 nhà cấp 4 nhu hiện nay. Tháng 9/2003, ông BĐ_Xong phá bỏ căn nhà cấp 4, xây dựng nhà 3 tầng có để lại bức tường nhà cũ để nhà ông NĐ_Biệt sử dụng. Quá trình xây dựng nhà ông BĐ_Xong, nhà ông NĐ_Biệt có bị nứt tường, nên ông NĐ_Biệt yêu cầu ông BĐ_Xong bồi thường số tiền 20.000.000đ để xây dựng lại nhà. ông BĐ_Xong cho rằng: Ông xây dựng nhà đúng ranh đất và vẫn còn để lại bức tường nhà cũ của ông cho ông NĐ_Biệt nhờ, nên không đồng ý bồi thường. Đồng thời yêu cầu ông NĐ_Biệt khi xây dựng lại nhà mới, thì phải trả lại cho ông bức tường này.