cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

05/2011/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1170
  • 10

Yêu cầu chia thừa kế

18-03-2011

Theo đơn khởi kiện ngày 01/10/2006 và lời khai của ông Phạm Văn Nghị (đại diện cho bà NĐ_Liên) trong quá trình tố tụng thì: cha mẹ bà NĐ_Liên là cụ Bùi Trọng Minh (chết năm 1973 không để lại di chúc) và cụ Nguyễn Thị Nguyệt (chết năm 1997 không để lại di chúc) sinh được 05 người con: ông BĐ_Bùi Trọng Sinh, bà NĐ_Bùi Thị Liên, bà BĐ_Bùi Thị Linh, ông BĐ_Bùi Trọng Thắng và ông Bùi Trọng Thủy (ông Thủy chết năm 2005). Khi còn sống, cụ Minh, cụ Nguyệt tạo lập được khối tài sản gồm: 01 lô đất 1,9ha tại ấp AL, xã BH nay là khối 8, thị trấn BH, huyện KB, ĐL (cụ Nguyệt đã bán 4000m2 đất cho ông Ngô Đình Chi); 01 nhà và đất tọa lạc tại khu vực chợ Phú Cường, thị trấn BH (ông BĐ_Bùi Trọng Sinh đã bán). Sau khi cụ Nguyệt chết thì ông BĐ_Sinh, ông BĐ_Thắng, ông Thủy, bà BĐ_Linh đã tự ý phân chia 1,5ha đất mà không có sự đồng ý của bà NĐ_Liên. Nay, bà NĐ_Liên yêu cầu phân chia di sản thừa kế của cha mẹ theo quy định pháp luật. Riêng phần đất mà ông Thủy đã đựợc chia trước đây trong lô đất 1,5ha nếu ông BĐ_Sinh, ông BĐ_Thắng và bà BĐ_Linh thống nhất không yêu cầu chia thì bà NĐ_Liên đồng ý không tranh chấp và chỉ yêu cầu chia phần đất còn lại. Ngoài ra, bà NĐ_Liên còn gửi về cho bà BĐ_Linh số tiền 130.000.000đ để bà BĐ_Linh trả nợ cho cụ Nguyệt nên bà NĐ_Liên yêu cầu được hoàn trả lại số tiền này.


05/2011/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1157
  • 6

Tranh chấp thừa kế

18-03-2011

Theo đơn khởi kiện ngày 01/10/2006 và lời khai của ông Phạm Văn Nghị (đại diện cho bà NĐ_Liên) trong quá trình tố tụng thì: cha mẹ bà NĐ_Liên là cụ Bùi Trọng Minh (chết năm 1973 không để lại di chúc) và cụ Nguyễn Thị Nguyệt (chết năm 1997 không để lại di chúc) sinh được 05 người con: ông BĐ_Bùi Trọng Sinh, bà NĐ_Bùi Thị Liên, bà BĐ_Bùi Thị Linh, ông BĐ_Bùi Trọng Thắng và ông Bùi Trọng Thủy (ông Thủy chết năm 2005). Khi còn sống, cụ Minh, cụ Nguyệt tạo lập được khối tài sản gồm: 01 lô đất 1,9ha tại ấp AL, xã BH nay là khối 8, thị trấn BH, huyện KB, ĐL (cụ Nguyệt đã bán 4000m2 đất cho ông Ngô Đình Chi); 01 nhà và đất tọa lạc tại khu vực chợ Phú Cường, thị trấn BH (ông BĐ_Bùi Trọng Sinh đã bán). Sau khi cụ Nguyệt chết thì ông BĐ_Sinh, ông BĐ_Thắng, ông Thủy, bà BĐ_Linh đã tự ý phân chia 1,5ha đất mà không có sự đồng ý của bà NĐ_Liên. Nay, bà NĐ_Liên yêu cầu phân chia di sản thừa kế của cha mẹ theo quy định pháp luật. Riêng phần đất mà ông Thủy đã đựợc chia trước đây trong lô đất 1,5ha nếu ông BĐ_Sinh, ông BĐ_Thắng và bà BĐ_Linh thống nhất không yêu cầu chia thì bà NĐ_Liên đồng ý không tranh chấp và chỉ yêu cầu chia phần đất còn lại. Ngoài ra, bà NĐ_Liên còn gửi về cho bà BĐ_Linh số tiền 130.000.000đ để bà BĐ_Linh trả nợ cho cụ Nguyệt nên bà NĐ_Liên yêu cầu được hoàn trả lại số tiền này.


18/2009/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1010
  • 5

Tranh chấp hợp đồng vay tài sản

29-06-2009

Vào tháng 5/2006, ông NĐ_Trần Văn Sang và bà NĐ_Lê Thị Thư có thỏa thuận làm giấy giao kèo vay tiền, thế chấp quyền sử dụng đất nền và bản vẽ cho vợ chồng ông BĐ_Lê Văn Phước và bà BĐ_Nguyễn Thị Hà để họ vay hộ 100.000.000 đồng của chị gái bà BĐ_Hà là cô Gái nhỏ (Nguyễn Thị Hường) với lãi suất 2%/tháng, trong thời hạn 1 năm. Ngày 10/5/2006, bà Thị viết giấy giao kèo, hai vợ chồng cùng ký tên và giao cho bà BĐ_Hà, ông BĐ_Phước cùng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số U371762 do anh NĐ_Sang đứng tên, để bà BĐ_Hà đi vay tiền hộ khi nào có tiền thì hai bên sẽ làm giấy giao tiền và nhận tiền, làm công chứng tại xã. Việc viết giấy giao kèo chỉ có vợ chồng anh NĐ_Sang, bà NĐ_Thư và vợ chồng ông BĐ_Phước, bà BĐ_Hà biết không có ai làm chứng. Do chưa nhận được tiền nên anh NĐ_Sang, bà NĐ_Thư khởi kiện yêu cầu vợ chồng ông BĐ_Phước, bà BĐ_Hà trả lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và bản vẽ nhà cho anh NĐ_Sang, bà NĐ_Thư.


261/2009/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 803
  • 4

Tranh chấp chuyển nhượng quyền sử dụng đất

25-06-2009

Theo đơn khởi kiện và lời khai của anh NĐ_Đinh Văn Bình trong quá trình giải quyết vụ án thì cha anh là ông Đinh Văn Sáng được Nhà nước xác lập quyền sử dụng đất số 003456 ngày 5/6/1992 tại các thửa 351, 357, 358. Năm 1999 ông Sáng chết. Ngày 16/8/2001 anh NĐ_Đinh Văn Bình được ủy ban nhân dân huyện chấp thuận cho đứng tên toàn bộ diện tích đất là 11.106m2 tại các thửa đất của (nói trên). Năm 1976 cha anh có cho ông BĐ_Huỳnh Văn Bảo sử dụng với hình thức cho ở nhờ tại thửa 357. Nay anh có nhu cầu sử dụng đất nên anh yêu cầu ông BĐ_Bảo di dời, trả đất anh sẽ hổ trợ di dời 3.000.000 đ và trả giá trị cây trồng theo định giá.


258/2009/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 995
  • 12

Tranh chấp quyền sử dụng đất

24-06-2009

Theo đơn khởi kiện ngày 23/10/2006 và trong quá trình tố tụng, bà NĐ_Phạm Thị Thư và ông Nguyễn Kim Cương đại diện của bà NĐ_Thư khai: Gia đình ông được gia tộc để lại một phần đất tại ấp Sò Đọ, thị trấn HN, huyệp ĐH, năm 1990 ông Huỳnh Kim Chi (chồng bà NĐ_Thư, cha ông Cương) được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất loại bìa trắng diện tích 7.065m2, ông Cương được cấp quyền sử dụng đất 6.92lm2. Năm 1997 ông Chi mất, bà NĐ_Thư thấy hoàn cảnh gia đình ông BĐ_Huỳnh Văn Công là cán bộ Trường bổ túc, khó khăn không có nhà ở do bị giải tỏa, vợ lại bị bệnh, xuất phát từ tình cảm bạn bè nên bà NĐ_Thư cho ông BĐ_Công một phần đất cất nhà ở, khi nào Nhà nước giải quyết chính sách cho ông BĐ_Công thì trả lại đất, năm 2004 ông BĐ_Công được nhà nước cấp nhà tình thương, đã đổ vật tư để xây nhà tình thương trên đất của ông, gia đình ông ngăn cản và yêu cầu ông BĐ_Công trả đất nhưng ông BĐ_Công không trả. Nay ông Cương được bà NĐ_Thư ủy quyền tham gia tố tụng yêu cầu ông BĐ_Công dỡ nhà trả đất mà Tòa án đã đo đạc là 200m2, ông Cương đồng ý bồi thường các tài sản trên đất.