89/2009/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 255
- 5
Về nguồn gốc đất và quá trình sử dụng đất, bà BĐ_Miển trình bày như sau: Vào năm 1965, bà BĐ_Miển và ông LQ_Cởn mua của ông Lê Văn Dương và bà Đào Thị Hai diện tích đất nêu trên và 01 căn nhà (bà BĐ_Miển, ông LQ_Cởn đang sử dụng nhà). Đây là nhà đất mà ông Lê Văn Tải chia cho ông Dương. Tại thời điểm ông Dương được chia nhà đất, thì ông Lê Văn Đẩu (anh ông Dương) cũng được ông Lê Văn Tải chia cho nhà và đất. Sau khi ông Đẩu qua đời, đến năm 1977, bà Dư Thị Giàu chia đất mà ông Đẩu được hưởng nêu trên làm hai phần cho ông LQ_Cởn và ông BĐ_Dũng, mỗi người một phần. Khi bà Giàu chia đất cho ông LQ_Cởn, ông BĐ_Dũng thì bà Giàu đã lấy đất mà vợ chồng bà BĐ_Miển mua của ông Dương (phần đất tranh chấp) để chia, bà BĐ_Miển không chấp nhận, đã khiếu nại tại Ủy ban nhân dân xã Phước Long Thọ. Kết quả giải quyết thì phần đất tranh chấp thuộc quyền sử dụng của bà BĐ_Miển. Năm 1981, bà BĐ_Miển giao diện tích nêu trên cho bà Giàu sử dụng. Năm 1992, bà Giàu chết, ông BĐ_Dũng tiếp tục sử dụng. Vào năm 2008, Ủy ban nhân dân huyện ĐĐ đã thu hồi một phần diện tích đất tranh chấp là 515m2 để cải tạo nâng cấp Tỉnh lộ 52. Diện tích đất còn lại là 65m2.
51/2009/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1176
- 11
Theo đơn khởi kiện và các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn là ông NĐ_Nguyễn Tuân trình bày: Diện tích đất khoảng 4.293m2 hiện gia đình ông BĐ_Nguyễn Văn Nết, bà BĐ_Nguyễn Thị Hồng và bà BĐ_Nguyễn Thị Linh đang ở và canh tác là 01 phần trong tổng diện tích đất của ông ở thửa 63, 80, 81, tờ bản đồ số 15, ấp Phú Thạnh, xã MX, huyện TT, tỉnh BR - VT. Đất này ông nhờ vợ chồng bà LQ_Nguyễn Thị Sương và ông LQ_Phạm Văn Tình mua hộ từ năm 1992 và giao cho vợ chồng ông LQ_Tình trông coi. Sau đó ông LQ_Tình bà LQ_Sương làm giấy sang lại đất cho ông vào ngày 3.3.1992, có xác nhận của chính quyền địa phương. Năm 1994, bà LQ_Sương có cho vợ chồng ông BĐ_Nết, bà BĐ_Hồng mượn 30m2 đất để xây nhà ở, hẹn trong vòng 6 tháng sẽ trả (có làm giấy tay ngày 9.1.1994) nhưng khi đến hạn ông nhiều lần đòi lại đất mà vợ chồng ông BĐ_Nết không trả. Năm 1998, ông đã được UBND Huyện TT cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Năm 2002, LQ_Ủy ban nhân dân xã MX cấp nhà tình thương cho gia đình ông BĐ_Nết xây trên đất của ông. Đất đang tranh chấp với gia đình ông BĐ_Nết là tài sản riêng của ông, không liên quan đến vợ ông và vợ ông đã có văn bản xác nhận điều này.
47/2009/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 388
- 4
Năm 2005, vợ chồng ông BĐ_Nguyễn Đức Dũng tự ý chiếm dụng của gia đình ông diện tích đất 30 m2 để xây cầu trái phép (không có giấy phép) và 138m2 đất sử dụng làm đường đi riêng cho gia đình ông BĐ_Dũng. Toàn bộ diện tích đất chiếm dụng nêu trên là một phần đất thuộc thửa 73, tờ bản đồ số 33 toạ lạc tại ấp Tân Lộc, xã PH, huyện TT, tỉnh BR - VT. Thửa đất trên gia đình ông NĐ_Cường đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số T838079 vào sổ số 02750-QSDD/347/QDTJBH vào ngày 07/2/2002. Do đó, ông NĐ_Cường yêu cầu vợ chồng ông BĐ_Dũng trả lại đường đi, dỡ bỏ cổng, cầu, trả lại đất cho gia đình Ông.
45/2009/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1971
- 33
Nguyên đơn, bà NĐ_Nguyễn Thị Kim Phượng xác định yêu cầu khởi kiện như sau: Vào những năm 1998 - 1999, Bà có làm chủ 03 dây hụi và bà BĐ_Nguyễn Thị Kim (Mai) có tham gia chơi, cụ thể: Dây 1: Từ 15/6/1998 đến 15/8/1999 mở dây hụi 1.000.000 đồng/tháng, có 15 người tham gia. Bà BĐ_Kim hốt hụi và số tiền còn phải đóng cho Bà là 12.000.000 đồng nhưng không đóng. Dây 2: Từ 15/6/1998 đến 15/8/1999, hụi 1.000.000 đồng/tháng, có 15 người tham gia. Bà BĐ_Kim hốt hụi và số tiền còn phải đóng cho bà là 10.000.000 đồng nhưng không đóng. Dây 3: Từ 15/6/1998 đến 15/8/1999, hụi 2.000.000 đồng/tháng, có 15 người tham gia, Bà BĐ_Kim hốt hụi và số tiền còn phải đóng cho Bà là 20.000.000 đồng nhưng cũng không đóng.
44/2009/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 362
- 3
Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Do mối quan hệ lối xóm nên ngày 05/9/2005, bà NĐ_Hồng có cho bà BĐ_Lê Thị Hải vay số tiền là 420.000.000 (bốn trăm hai mươi triệu) đồng để mua đất và đáo hạn Ngân hàng trong thời gian là 03 tháng. Nhưng bà BĐ_Hải kéo dài 14 tháng mới thanh toán hết tiền vốn 420.000.000 đồng cho bà NĐ_Hồng vào ngày 29/10/2006, riêng tiền lãi chưa trả đồng nào. Cùng ngày 05/09/2005, bà BĐ_Hải vay thêm của bà NĐ_Hồng 400.000.000 (bốn trăm triệu) đồng, lãi 4%/tháng, thế chấp một giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên bà BĐ_Hải, đất toạ lạc tại Châu Đức, thời gian vay là 10 ngày. Khi vay chính bà BĐ_Hải viết “giấy vay nợ” và ký tên tại nhà bà NĐ_Hồng, thời gian ký vào buổi chiều khoảng 15 giờ 00’ đến 16 giờ 00’ ngày 05/09/2005 trong giấy có ghi góp mỗi ngày 2.000.000 (hai triệu) đồng. Từ ngày vay cho đến nay bà BĐ_Hải không trả cho bà NĐ_Hồng đồng vốn và lãi nào.