46/2008/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 4412
- 161
Theo ông NĐ_Quang trình bày thì: Năm 1984 gia đình ông được Ủy ban nhân dân xã Gia Thụy, huyện Gia Lâm cấp 150m2 đất (phía trước có ao và lối đi ra phía mương của xóm) để làm nhà. Năm 1985 ông đã cất nhà trên diện tích đất này và ở cho đến nay. Quá trình sinh sống, do có nhu cầu đi ra Quốc lộ 5 cho thuận tiện, ông và ông BĐ_Mã đề nghị chính quyền xã cho một số hộ dân sống tại đây sử dụng ao trước nhà ông để làm đường đi (rộng 1,5m) từ nhà ông qua nhà ông NĐ_Phương và nhà ông BĐ_Mã để ra Quốc lộ 5. Sau đó, gia đình ông đã đóng góp đổ cát lấp ao tạo ra lối đi nối với đường Quốc lộ 5 và sử dụng cho đến nay. Năm 1992 ông BĐ_Mã xây Kiốt (giáp Quốc lộ 5) đã lấn chiếm sang phần lối đi, gia đình ông có ý kiến nhưng ông BĐ_Mã trình bày hoàn cảnh, xây Ki ốt để nuôi con, nên lối đi chỉ còn lại 1m; ông BĐ_Mã đã hứa là lối đi này do 2 gia đình (gia đình ông BĐ_Mã và gia đình ông) cùng làm, cùng đi (ông BĐ_Mã đã giấy cam đoan theo nội dung này); do vậy, gia đình ông có quyền sử dụng lối đi.
14/2006/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1268
- 32
Căn nhà 17 Yersin - NT thuộc sở hữu của vợ chồng ông bà Lương Duy Ủy và NĐ_Nguyễn Thị Kim Thuệ, ông Lương Duy Ủy qua đời từ năm 1968. Bà NĐ_Thuệ tiến hành làm thủ tục thừa kế căn nhà trên, cũng trong thời gian này bà NĐ_Thuệ cho ông Hoàng Hiệu ở nhờ, năm 1972 bà NĐ_Thuệ gửi nhà cho bà Nguyễn Thị Sinh trông coi dùm, cuối năm 1972 bà Sinh tự động cho bà Nguyễn Thị cất ở nhờ một thời gian.
189/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 222
- 7
Ông Hà Quang Ước và bà Trần Thị Đúc kết hôn năm 1979 trên cơ sở tự nguyện có tìm hiểu, đăng ký kết hôn tại UBND khu ĐĐ. Vợ chồng chung sống hòa thuận đến năm 1985 thì phát sinh mâu thuẫn trong sinh hoạt. Từ năm 1997, mâu thuẫn càng căng thẳng do bất đồng về quan điểm, cách nuôi dạy con cái, nhiều lần cãi chửi nhau xúc phạm đến danh dự của nhau. Năm 2000, ông ước có đơn xin ly hôn được Tòa án phân tích đã rút đơn về đoàn tụ. Do không cải thiện được tình cảm vợ chồng mà mâu thuẫn ngày càng căng thẳng, ông Ước ăn riêng và sống ly thân, xét thấy tình cảm vợ chồng không còn khả năng chung sống, ông Ước có đơn xin ly hôn. Bà Đúc cho rằng vẫn còn tình cảm với ông Ước nên đề nghị đoàn tụ vì các con.
15/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 789
- 10
Tranh chấp quyền sở hữu tài sản
Tại đơn khởi kiện đề ngày 22/8/2001, và trong quá trình giải quyết vụ án, bà NĐ_Ngô Thị Hạnh trình bày: Bà và ông Hàng Việt (chết ngày 23/11/1995) là vợ chồng chung sống từ năm 1950, có hai con chung là LQ_Trần Thanh Hoành, LQ_Hàng Lưu Sáng và một con nuôi là LQ_Hàng Huệ Lan; hai con Thanh Hoàng và Lưu Kim hiện đang sống tại Hoa Kỳ. Năm 1950 bà và ông Hàng Việt thuê căn nhà số 112 Nhân Vị, sau đổi thành Trần Hùng Quân (nay là số 240 NCT, phường X, quận M, thành phố HCM) của ông Trương Văn Bền để ở. Sau giải phóng vì căn nhà trên thuộc diện nhà do nhà nước quản lý nên thay vì ký hợp đồng với chủ nhà, vợ chồng bà tiếp tục ký hợp đồng thuê nhà với đội quản lý nhà thuộc ban xây dựng nhà đất quận M (hợp đồng thuê nhà số 325 ngày 05/11/1982 do chồng bà tên là Hàng Việt đứng tên thuê). Đến năm 1985, vợ chồng bà tiến hành thủ tục mua đứt căn nhà trên nhân đợt Nhà nước hoá giá nhà.
13/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 629
- 6
Tranh chấp hợp đồng khai thác gỗ
Đại diện NĐ_Công ty Sản xuất và Thương mại Phương Lâm trình bày: Ngày 7/11/1993 giữa đại diện LQ_Công ty Kagaga (Campuchia) có ông Men Sok Chey-Tổng giám đốc, ông Xuân Liên - Giám đốc công trình đã ký “Hợp đồng khai thác gỗ tròn” (gom bãi và vận xuất) số 042-93/KG với đại diện NĐ_Công ty Sản xuất và Thương mại Phương Lâm có ông Nguyễn Văn Thu-Phó tổng giám đốc, ông Hồ Tấn Quyên - Giám đốc kế hoạch.