17/2011/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 479
- 4
Cụ Hoàng Bân và cụ Nguyễn Thị Thảo có 03 người con chung là ông NĐ_Hoàng Bá Nhiên, bà LQ_Hoàng Thị Thanh (hiện cư trú ở Mỹ) và bà LQ_Hoàng Thị Sa. Trước khi cụ Bân lấy cụ Thảo, cụ Bân có một người con riêng là bà BĐ_Hoàng Thị Xiên và bà BĐ_Xiên được cụ Bân, cụ Thảo nuôi dưỡng từ nhỏ. Cụ Bân và cụ Thảo tạo lập được khối tài sản chung là căn nhà số 129F/138/134 BVĐ, phường 6, quận X, thành phố HCM. Ngày 05/2/1980, cụ Bân chết. Sau đó, cụ Thảo đã tách căn nhà trên thành 02 căn nhà mang số 129F/138/134 (do bà BĐ_Xiên quản lý, sử dụng) và số 129F/138/136 (do ông NĐ_Nhiên ký giấy bán cho bà LQ_Sa và có chia tiền cho bà BĐ_Xiên). Ngày 06/7/1998, cụ Thảo chết không để lại di chúc. Nay ông NĐ_Nhiên khởi kiện yêu cầu chia thừa kế căn nhà số 129F/138/134 theo quy định của pháp luật.
17/2011/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 392
- 3
Cụ Hoàng Bân và cụ Nguyễn Thị Thảo có 03 người con chung là ông NĐ_Hoàng Bá Nhiên, bà LQ_Hoàng Thị Thanh (hiện cư trú ở Mỹ) và bà LQ_Hoàng Thị Sa. Trước khi cụ Bân lấy cụ Thảo, cụ Bân có một người con riêng là bà BĐ_Hoàng Thị Xiên và bà BĐ_Xiên được cụ Bân, cụ Thảo nuôi dưỡng từ nhỏ. Cụ Bân và cụ Thảo tạo lập được khối tài sản chung là căn nhà số 129F/138/134 BVĐ, phường 6, quận X, thành phố HCM. Ngày 05/2/1980, cụ Bân chết. Sau đó, cụ Thảo đã tách căn nhà trên thành 02 căn nhà mang số 129F/138/134 (do bà BĐ_Xiên quản lý, sử dụng) và số 129F/138/136 (do ông NĐ_Nhiên ký giấy bán cho bà LQ_Sa và có chia tiền cho bà BĐ_Xiên). Ngày 06/7/1998, cụ Thảo chết không để lại di chúc. Nay ông NĐ_Nhiên khởi kiện yêu cầu chia thừa kế căn nhà số 129F/138/134 theo quy định của pháp luật.
05/2011/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1170
- 10
Theo đơn khởi kiện ngày 01/10/2006 và lời khai của ông Phạm Văn Nghị (đại diện cho bà NĐ_Liên) trong quá trình tố tụng thì: cha mẹ bà NĐ_Liên là cụ Bùi Trọng Minh (chết năm 1973 không để lại di chúc) và cụ Nguyễn Thị Nguyệt (chết năm 1997 không để lại di chúc) sinh được 05 người con: ông BĐ_Bùi Trọng Sinh, bà NĐ_Bùi Thị Liên, bà BĐ_Bùi Thị Linh, ông BĐ_Bùi Trọng Thắng và ông Bùi Trọng Thủy (ông Thủy chết năm 2005). Khi còn sống, cụ Minh, cụ Nguyệt tạo lập được khối tài sản gồm: 01 lô đất 1,9ha tại ấp AL, xã BH nay là khối 8, thị trấn BH, huyện KB, ĐL (cụ Nguyệt đã bán 4000m2 đất cho ông Ngô Đình Chi); 01 nhà và đất tọa lạc tại khu vực chợ Phú Cường, thị trấn BH (ông BĐ_Bùi Trọng Sinh đã bán). Sau khi cụ Nguyệt chết thì ông BĐ_Sinh, ông BĐ_Thắng, ông Thủy, bà BĐ_Linh đã tự ý phân chia 1,5ha đất mà không có sự đồng ý của bà NĐ_Liên. Nay, bà NĐ_Liên yêu cầu phân chia di sản thừa kế của cha mẹ theo quy định pháp luật. Riêng phần đất mà ông Thủy đã đựợc chia trước đây trong lô đất 1,5ha nếu ông BĐ_Sinh, ông BĐ_Thắng và bà BĐ_Linh thống nhất không yêu cầu chia thì bà NĐ_Liên đồng ý không tranh chấp và chỉ yêu cầu chia phần đất còn lại. Ngoài ra, bà NĐ_Liên còn gửi về cho bà BĐ_Linh số tiền 130.000.000đ để bà BĐ_Linh trả nợ cho cụ Nguyệt nên bà NĐ_Liên yêu cầu được hoàn trả lại số tiền này.
05/2011/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1157
- 6
Theo đơn khởi kiện ngày 01/10/2006 và lời khai của ông Phạm Văn Nghị (đại diện cho bà NĐ_Liên) trong quá trình tố tụng thì: cha mẹ bà NĐ_Liên là cụ Bùi Trọng Minh (chết năm 1973 không để lại di chúc) và cụ Nguyễn Thị Nguyệt (chết năm 1997 không để lại di chúc) sinh được 05 người con: ông BĐ_Bùi Trọng Sinh, bà NĐ_Bùi Thị Liên, bà BĐ_Bùi Thị Linh, ông BĐ_Bùi Trọng Thắng và ông Bùi Trọng Thủy (ông Thủy chết năm 2005). Khi còn sống, cụ Minh, cụ Nguyệt tạo lập được khối tài sản gồm: 01 lô đất 1,9ha tại ấp AL, xã BH nay là khối 8, thị trấn BH, huyện KB, ĐL (cụ Nguyệt đã bán 4000m2 đất cho ông Ngô Đình Chi); 01 nhà và đất tọa lạc tại khu vực chợ Phú Cường, thị trấn BH (ông BĐ_Bùi Trọng Sinh đã bán). Sau khi cụ Nguyệt chết thì ông BĐ_Sinh, ông BĐ_Thắng, ông Thủy, bà BĐ_Linh đã tự ý phân chia 1,5ha đất mà không có sự đồng ý của bà NĐ_Liên. Nay, bà NĐ_Liên yêu cầu phân chia di sản thừa kế của cha mẹ theo quy định pháp luật. Riêng phần đất mà ông Thủy đã đựợc chia trước đây trong lô đất 1,5ha nếu ông BĐ_Sinh, ông BĐ_Thắng và bà BĐ_Linh thống nhất không yêu cầu chia thì bà NĐ_Liên đồng ý không tranh chấp và chỉ yêu cầu chia phần đất còn lại. Ngoài ra, bà NĐ_Liên còn gửi về cho bà BĐ_Linh số tiền 130.000.000đ để bà BĐ_Linh trả nợ cho cụ Nguyệt nên bà NĐ_Liên yêu cầu được hoàn trả lại số tiền này.
66/2011/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 744
- 18
Không công nhận quan hệ vợ chồng
Năm (1989) ông Mật và bà Nguyễn Thị Son chung sống (có đăng ký kết hôn), có 2 con chung là Phạm Thanh Thủy và Phạm Minh Hồng. Tài sản chung của vợ chồng ông gồm có căn nhà cấp 4, bếp, chuồng heo, công trình thắp sáng trên diện tích 17.000 m2 đất (đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên ông Mật với diện tích 11.396 m2) trồng cây cà phê cùng các tài sản khác như 2 máy chà cà phê, 01 cân đồng hồ, 01 xe máy, 01 máy kama4, 01 mô tơ, 01 tủ đựng quần áo, tủ đựng chén bát, 01 quạt điện; ngoài ra, vợ chồng ông còn nợ vợ chồng ông Toàn số tiền 22.500.000đ, nợ bà Vui 3.000.000đ và 01 chỉ vàng, nợ bà Bảy 1.400.000đ, nợ ông Thiết 1.050.000đ, nợ bà Mừng 800.000đ, nợ bà Trọng 1.000.000đ. Do mâu thuẫn nên ông Mật yêu cầu được ly hôn bà Son, đồng ý nuôi cháu Hồng, yêu cầu chia đôi tài sản chung và nợ chung