375/2014/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 2532
- 124
Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Trong đơn khởi kiện nộp đến Tòa án nhân dân Quận X Thành phố Hồ Chí Minh ngày 11/7/2012, đơn khởi kiện bổ sung ngày 29/10/2012 và ngày 07/8/2013, cùng các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn là Bà NĐ_Thái Thị Kim Nga trình bày: Bà là chủ sở hữu căn nhà số 579 HB P2Q6 (gọi tắt là nhà 579) (theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CH09143 do UBND Quận X cấp ngày 14/10/2011). Năm 2011 bà tiến hành xây dựng lại nhà thì phát hiện nhà 581 HB P2Q6 (gọi tắt là nhà 581) của ông BĐ_Trương Đức Tín và bà LQ_Nguyễn Thị Thu Hoa xây dựng lấn qua nhà 579 một phần diện tích đất thuộc quyền sử dụng của bà
354 /2014/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 395
- 12
Nguyên trước đây bà NĐ_Lâm Thị Thanh có mua 02 lô đất bằng giấy tay. Lô đầu hiện là căn nhà số 549/38 Âu Cơ, Phường 10. Quận TB, lô đất này bà NĐ_Thanh hùn tiền mua chung với ông Nguyễn Văn Dũng, diện tích lô đất là 4m x 17m= 68m2 với giá là 7 lượng vàng. Lô đất thứ 02 bà NĐ_Thanh mua riêng, hiện tại là 03 căn nhà số 594/34/1A, 572/19/55/1B, 594/34/1C Âu Cơ, Phường 10, Quận TB, tổng diện tích lô đất là 9m x 14m = 126m2. Do ở xa nên bà NĐ_Lâm Thị Thanh nhờ bà Lâm Thị Hạnh trông coi dùm nhưng bà Hạnh lại bán 02 lô đất trên của bà NĐ_Thanh và không trả lại tiền bán đất cho bà NĐ_Thanh. Ngày 12/12/1996 Bà Hạnh có làm giấy chứng nhận (Đã công nhận bán đất và nhận tiền) và ký tên với tư cách người bán đất và nhận tiền, có sự chứng kiến làm chứng của ông Lương Vĩnh Phúc và ông Nguyễn Văn Dũng, xác nhận bà Lâm Thị Hạnh có nhận toàn bộ số tiền bán đất của bà NĐ_Lâm Thị Thanh, tổng số là 12 lượng vàng.
42/2014/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1558
- 19
Tranh chấp hợp đồng gửi giữ tài sản
bà NĐ_Đào Thị Kim Thủy là nguyên đơn trình bàv: Ngày 09/5/2013, bà có cho em ruột là ông LQ_Đào Đình Tú, sinh năm 1972 mượn chiếc xe SH150I biển số 59C 1-267.27 làm phương tiện đi đến Trường Hóa Quang và gửi xe (có thẻ giử xe) tại bãi giữ xe trong khuôn viên trường. Tuy nhiên, khoảng 13 giờ ông LQ_Tú phát hiện mất xe và có đến Công an phường ĐK, Quận X trình báo sự việc, Công an đã lập biên bản ghi nhận lại sự việc. Đến ngày 21/6/2013 ông LQ_Tú có yêu cầu BĐ_Công ty TNHH thương mại Quỳnh Châu bồi thường thiệt hại chiếc xe bị mất là 140.000.000 (một trăm bốn mươi triệu) đồng, nhưng BĐ_Công ty TNHH thương mại Quỳnh Châu và LQ_Công ty TNHH một thành viên dịch vụ bảo vệ Phi Hổ không đồng ý bồi thường với giá trị nêu trên, vì giấy chứng nhận đăng ký xe ghi sản xuất lắp ráp trong nước.
191/2014/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 337
- 7
Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Tại đơn khởi kiện ngày 22/11/2011, tại bản tự khai ngày 09/01/2012, tại biên bản hòa giải ngày 02/05/2012, biên bản hòa giải ngày 15/08/2013 và tại biên bản hòa giải ngày 02/12/2013 phía nguyên đơn trình bày: Ngày 19/11/2010 ông NĐ_Tính có cho vợ chồng ông BĐ_Linh bà BĐ_Hân vay số tiền 1.200.000.000 đồng, lãi suất 1,5%/tháng, thời hạn vay là 12 tháng, hai bên có ký hợp đồng vay và thế chấp nhà tại phòng công chứng số 4. Để bảo đảm nghĩa vụ bên vay có thế chấp căn nhà số 93/44 (số cũ 93/42) đường LBB, phường TTH, quận TP (giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 6433/2008/UB-GCN ngày 17/09/2008). Mặt khác, cùng ngày 19/11/2010 ông BĐ_Linh, bà BĐ_Hân lại ký thêm hợp đồng vay tiền không biện pháp bảo đảm để vay 2.762.000.000 đồng, lãi suất là 1,5%/tháng, thời hạn vay là 12 tháng, số tiền 2.762.000.000 đồng ông NĐ_Tính giao cho ông BĐ_Linh, bà BĐ_Hân sau khi ký hợp đồng công chứng một ngày, tức là ngày 20/11/2010. Tổng cộng 02 lần vay là 3.962.000.000 đồng. Ngày 22/10/2011 ông BĐ_Linh bà BĐ_Hân có trả cho ông NĐ_Tính số tiền 700.000.000 đồng. Số tiền nợ gốc của hợp đồng trên còn lại là 2.062.000.000 đồng. Đến ngày 19/11/2011 hết hạn hợp đồng nhưng ông BĐ_Linh, bà BĐ_Hân không thanh toán cả vốn và lãi nên ông NĐ_Tính khởi kiện.
115/2014/HN-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 775
- 7
Ông và bà BĐ_Dương Thị Quỳnh Nhung là vợ chồng đã ly hôn theo quyết định số 42/2012/CNTT-HNGĐ-ST ngày 28/2/2012 của Tòa án nhân dân quận X. Nội dung quyết định đã giao con chung là trẻ Đỗ Quế Vy sinh ngày 15/02/2009 cho bà BĐ_Nhung trực tiếp nuôi dưỡng chăm sóc. Ông NĐ_Tùng cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 3.000.000 đồng cho đến khi con thành niên. Nhưng sau khi ly hôn bà BĐ_Nhung lấy lý do đi làm xa để trẻ Quế Vy lại cho bà ngoại và ông NĐ_Tùng chăm sóc, nuôi dưỡng, không hề quan tâm. Nay ông NĐ_Tùng yêu cầu được thay đổi người nuôi con và trực tiếp nuôi dưỡng chăm sóc trẻ Quế Vy. Không yêu cầu bà BĐ_Nhung cấp dưỡng nuôi con.