260/2016/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 2054
- 48
Theo đơn khởi kiện ngày 10/10/2002 của ông NĐ_Trần Văn Ngưng yêu cầu bà BĐ_Đỗ Thị Thiên cùng gia đình phải trả cho ông căn nhà số 28C NHC, phường TĐ, Quận H, Thành phố HCM. Tháng 3/2006 ông NĐ_Trần Văn Ngưng chết những người thừa kế quyền và nghĩa vụ tố tụng của NĐ_Ngưng là vợ bà Nguyễn Thị Muôn và các con là các ông bà Trần Thị Xuân Mai, Trần Thị Thu Cúc, Trần Thị Anh Đào, Trần Thị Kim Phượng, Trần Thiện Minh Tâm có bà Trần Thị Xuân Mai là đại diện ủy quyền. Bà Trần Thị Xuân có các lời khai bổ sung như sau: Nguồn gốc căn nhà số 28C NHC, phường TĐ, Quận H, TP.HCM của ông bà nội chúng tôi là ông Trần Văn Bối (chết 1961) và bà Trần Thị Đức (chết 1999), để lại cho cha của bà là ông NĐ_Trần Văn Ngưng (chết năm 2006). Căn nhà nằm trong bằng khoán 616 tờ số 2 thuộc thửa 60 được chiết ra từ bằng khoán 167 lập bộ vào ngày 23/5/1934 và từ đó đến ngày 30/4/1975 bằng khoán 616 không thay đổi.
24/2014/HC-ST Sơ thẩm Hành chính
- 1875
- 90
Khiếu kiện quyết định hành chính về việc thu hồi và hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Mặt khác hợp đồng chuyển nhượng Quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở công chứng số 14305 ngày 26/5/2009 giữa ông LQ_Võ Văn Gông, bà Trương Thị Tư với ông NĐ_Võ Minh Phùng được thực hiện theo đúng trình tự thủ tục theo quy định của pháp luật và hiện hợp đồng chuyển nhượng này còn nguyên giá trị pháp lý. Do đó giấy chứng nhận Quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 3085/2009/GCN ngày 15/7/2009 cấp cho ông NĐ_Võ Minh Phùng là đúng quy định pháp luật, không thuộc trường hợp cấp giấy chứng nhận trái quy định của pháp luật nên BĐ_Ủy ban nhân dân quận TĐ không thể tùy tiện thu hồi, hủy giấy chứng nhận đã cấp cho ông NĐ_Phùng khi chưa có bản án hoặc quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực thi hành. Với những căn cứ pháp luật quy định như nêu trên, người khởi kiện đề nghị Tòa án nhân dân quận TĐ hủy quyết định số 7191/QĐ-UBND ngày 09/12/2013 của BĐ_Ủy ban nhân dân quận TĐ về việc thu hồi Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 3085/2009/GCN ngày 15/7/2009 đã cấp cho ông NĐ_Võ Minh Phùng đối với căn nhà số 75/36 đường số 48, khu phố 6, phường HBC, quận TĐ, thành phố HCM.
22/2014/HC-ST Sơ thẩm Hành chính
- 333
- 10
Khiếu kiện quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ tái định cư
Người khởi kiện bà NĐ_Nguyễn Thị Thơ có bà LQ_Nguyễn Thị Minh Phượng đại diện trình bày: bà NĐ_Nguyễn Thị Thơ là chủ sử dụng căn nhà số 128- Ven Sông- Tổ 23- Ấp Cây Bàng 2- Phường TT- Quận X và 68,11 m2 đất mà căn nhà tọa lạc. Nhà đất của bà NĐ_Thơ nằm trong khu quy hoạch giải tỏa khu đô thị mới TT, BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X ban hành quyết định số 13123/QĐ-UBND ngày 22 tháng 9 năm 2009 về việc bồi thường tái định cư, theo nội dung của quyết định, BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X chỉ bồi thường 57,27 m2, tức là nếu chọn tái định cư thì được bố trí căn hộ chung cư có diện tích 57,27 m2 và 203.944.700 đồng. Vì bà NĐ_Thơ không nhận tái định cư nên BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X ban hành quyết định số 4834/QĐ-UBND ngày 15 tháng 4 năm 2011 có nội dung điều chỉnh Điều 1 của quyết định số 13123/QĐ-UBND ngày 22 tháng 9 năm 2009 có nội dung bà NĐ_Thơ không nhận suất tái định cư mà nhận tiền cho nên bà NĐ_Thơ được đền bù là 1.127.264.700 đồng, còn lại 10,84 m2 thì không bồi thường với lý do là hẻm.
19/2014/HC-ST Sơ thẩm Hành chính
- 496
- 11
Khiếu kiện quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng
Người khởi kiện ông NĐ_Nguyễn Tiến Tiều trình bày: Ông Nguyễn Tiến Đảng, ông Nguyễn Tiến Nghĩa và ông là 03 anh em. Vì không có nơi ở nên 3 anh em đã bàn bạc và thống nhất mua đất để xây nhà ở, các ông đã tìm gặp ông Trần Văn Út. Sau khi bàn bạc, ông Đảng đại diện ký văn bản chuyển nhượng quyền sử dụng đất với ông Trần Văn Út. Ngày 26 tháng 9 năm 1997, ông Đảng chia cho ông 200 m2, nhưng hai bên vẫn viết giấy tay mua bán với nhau, đất toạ lạc tại tổ 42- Ấp 4- Phường ALD- Quận X. Diện tích thực tế ông sử dụng là 206,44 m2, lúc nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất của ông Đảng, trên đất không có tài sản gì, đất trống. Đầu năm 2000, ông có xây dựng trên diện tích ấy 1 căn nhà để ở và chuồng trại để chăn nuôi với tổng diện tích xây dựng khoảng 175 m2, nhà xây không phép, xây xong ông đã ở và trực tiếp chăn nuôi. Nhà đất của ông nằm trong khu quy hoạch đô thị mới Thủ Thiêm, BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X đã ban hành quyết định số 1499/QĐ-UB ngày 13 tháng 4 năm 2005 về việc đền bù giải toả và ông đã nhận đủ số tiền 161.471.576 đồng. Ngày 6 tháng 7 năm 2009 BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X ban hành quyết định số 9652/QĐ-UBND có nội dung điều chỉnh lại Điều 1 của quyết định số 1499/QĐ-UB ngày 13 tháng 4 năm 2005 của Uỷ ban nhân dân Quận X có nội dung điều chỉnh lại số tiền đền bù, cụ thể đền bù cho ông số tiền 13.464.000 đồng và ông phải hoàn trả lại số tiền 148.007.576 đồng cho BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X, các nội dung khác không thay đổi, lý do là ông xây dựng công trình trên đất bao gồm nhà ở và chuồng trại sau năm 2002.
18/2014/ HC-ST Sơ thẩm Hành chính
- 605
- 12
Khiếu kiện quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng
Theo Đơn khởi kiện ngày 25/10/2011, Đơn thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện ngày 01/10/2013, bản tự khai, biên bản đối thoại và tại phiên Tòa, người khởi kiện – bà NĐ_Nguyễn Thị Đa có ông Hà Ngọc Tuyền là người đại diện theo ủy quyền yêu cầu Tòa án nhân dân Quận X hủy Quyết định số 10293/QĐ – UBND ngày 19/7/2010 của BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X và Quyết định số 12179/QĐ – UBND – TTr ngày 16/9/2011; yêu cầu BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X phải bồi thường toàn bộ 3.597m2 theo mức 100% giá đất ở là 16.200.000đ/m2 vì vào thời điểm thu hồi giải tỏa để thực hiện dự án Liên tỉnh lộ 25B giai đoạn 2 đất này đã được san lấp theo Giấy phép số 40/GP – UB – QLĐT ngày 05/4/2000 của BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X và có vị trí mặt tiền đường, đất thu hồi có nguồn gốc là đất trong cùng một thửa có nhà ở; yêu cầu công nhận diện tích 3.597m2 đất bị thu hồi thuộc quyền sở hữu chung của 26 hộ dân, không phải của cá nhân bà NĐ_Nguyễn Thị Đa, buộc BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X phải xét hạn mức bồi thường cho 26 hộ chứ không phải hạn mức bồi thường cho 01 hộ.