cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

103/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 425
  • 7

Tranh chấp quyền sử dụng đất

19-05-2006

Ngày 10/3/2004 nguyên đơn anh NĐ_Nguyễn Minh Mạnh và chị Phan Thị Huyền Trinh yêu cầu Tòa án nhân dân quận ÔM thành phố CT buộc gia đình bà BĐ_Châu Thị Tạo và vợ chồng anh BĐ_Nguyễn Văn Chiến giao trả lại phần đất 789m2 cho gia đình anh sử dụng theo đúng nội dung cam kết trong tờ hợp đồng ở tạm đã ký ngày 23/11/1996. Theo đơn khởi kiện và lời khai của chị Trinh thì nguồn gốc đất đang tranh chấp là của ông, bà nội để lại cho bố chồng chị là ông Nguyễn Minh Kế. Ông Kế có cho ông Nguyễn Thành Cu và bà BĐ_Châu Thị Tạo là cha mẹ của anh BĐ_Chiến ở nhờ năm 1996 ông Kế cho vợ chồng chị 5.582m2 tại thửa 290, 291 trên đó có phần đất 789m2 gia đình anh BĐ_Chiến đang ở nhờ. Anh chị không đồng ý, nên viết “tờ hợp đồng về việc ở tạm” có chữ ký của hai bên và chính quyền địa phương xác nhận.


102/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 388
  • 12

Tranh chấp quyền sử dụng đất

19-05-2006

Ngày 19/12/2001, bà NĐ_Nguyễn Thị Thạch khởi kiện yêu cầu bà BĐ_Nguyễn Thị Tiên tháo dỡ chuồng bò để trả đất. Theo bà NĐ_Thạch trình bày: Vào khoảng tháng 3 năm 2000 bà BĐ_Tiên có đơn yêu cầu ủy Ban Nhân Dân xã giải quyết bà NĐ_Thạch lấn chiếm đất của bà BĐ_Tiên, ngày 12/06/2001 tại ủy ban nhân dân xã hai bên cam kết nhờ đoàn đo đạc xác định ranh giới đất, nếu bên nào lấn chiếm thì phải tự tháo dở và chịu phí tổn đo đạc, chuồng bò của bà BĐ_Tiên nằm trên đất của bà NĐ_Thạch nhưng bà BĐ_Tiên không chịu thực hiện cam kết nên bà NĐ_Thạch khởi kiện yêu cầu bà BĐ_Tiên tháo dỡ chuồng bò để trả đất.


100/2006/PS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 378
  • 7

Tranh chấp quyền sử dụng đất

18-05-2006

Ngày 28/4/2003 ông NĐ_Trần Văn Long có đơn khởi kiện yêu cầu ồng BĐ_Trần Văn Xiêm Và bà BĐ_Trần Thị Sông (tức Ngọc Ánh) trả lại phần diện tích đất hiện bà BĐ_Sông và ông BĐ_Xiêm đang sử dụng. Theo ông NĐ_Trần Văn Long trình bày: Cha mẹ ông là cụ Trần Văn Mẫn và cụ Nguyễn Thị Ba, trước khi các cụ qua đời có chia đất cho 5 người con. Phần đất của ông được chia gồm: 10 công đất ruộng, 7 công đất biền bãi và 5 công đất vườn. Việc phân chia không lập giấy tờ nhưng ông đã sử dụng từ năm 1963 và đã được Ủy ban nhân dân huyện CN cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 14/12/1995 với tổng diện tích là 33.350m2. Hiện nay bà BĐ_Sông (là chị gái) đã chiếm hết phần đất biền bãi trồng lá, ông BĐ_Xiêm (là anh trai) chiếm 2590m2 đất vườn và phần mương sổ nước có chiều ngang 6m, chiều dài 72m. Ông yêu cầu bà BĐ_Sông, Ông BĐ_Xiêm trả diện tích đất nêu trên.


97/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 812
  • 3

Tranh chấp hợp đồng thuê nhà và quyền sử dụng đất

18-05-2006

Theo anh Thân Văn Hạn (được bà NĐ_Hoàng Thị Tuyết ủy quyền) trình bày trong đơn khởi kiện và lời khai như sau: Nguồn gốc thửa đất 490m2 hiện anh Thân Văn Phàm (con trai bà NĐ_Tuyết) và bà BĐ_Thân Thị Biện đang ở là của bố mẹ anh là ông Thân Văn Nghi và bà NĐ_Hoàng Thị Tuyết. Năm 1972, bố anh xin ra khỏi hợp tác xã và đã đổi 12 thước ruộng cho ông Đào Văn Kiểm để lấy thửa đất này. Sau đó bố mẹ anh làm nhà ở. Năm 1985 bố mẹ anh thấy bà BĐ_Biện (bà BĐ_Biện là em ruột bố nuôi) sống độc thân nên đã đồng ý để bà BĐ_Biện ra ở 3 gian nhà nhỏ cấp 4 trên phần đất đổi cho ông Kiểm để bà BĐ_Biện bán nước sinh sống, cũng năm đó thì bố mẹ anh cho anh Thân Văn Phàm ra ở 4 gian nhà cấp 4 cùng trên mảnh đất với bà BĐ_Biện. Năm 1986 bà BĐ_Biện đã dở nhà cũ xây lại nhà mới ở đến nay.


07/2013/KDTM-GĐT Giám đốc thẩm Kinh doanh thương mại

  • 3221
  • 128

Tranh chấp hợp đồng mua bán thép

15-03-2013

Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng Điều 306 Luật Thương mại năm 2005 để tính lãi chậm trả theo mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tại thời điểm xét xử sơ thẩm theo yêu cầu của nguyên đơn để áp dụng mức lãi suất quá hạn (là 10,5%/năm) là không đúng. Trong trường hợp này, Tòa án cần lấy mức lãi suất quá hạn trung bình của ít nhất ba Ngân hàng tại địa phương (Ngân hàng nông nghiệp và phát triến nông thôn Việt Nam, Ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng thương mại cổ phần công thương Việt Nam...) để tính lại tiền lãi do chậm thanh toán cho đúng quy định của pháp luật.