59/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1164
- 35
Tranh chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất
Hai cụ tuy là đồng sở hữu tài sản tranh chấp, nhưng từ khi mua năm 1962 đến khi tranh chấp năm 2006 không trực tiếp quản lý sử dụng nên coi như đã từ bỏ quyền sở hữu tài sản. Vì vậy, có cơ sở xác định cụ LQ_Thương, cụ Kê đã đồng ý với cụ LQ_Tú cho ông LQ_Xu, ông BĐ_Sung phần tài sản của hai cụ. Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu đòi tài sản của cụ LQ_Thương, ông LQ_Chinh là đúng. Tòa án cấp phúc thẩm hủy án sơ thẩm để giao giải quyết lại theo hướng chấp nhận yêu cầu của cụ LQ_Thương, ông LQ_Chinh là không có căn cứ. Vì vậy, cần hủy án phúc thẩm để giao xét xử phúc thẩm lại, nếu không có chứng cứ mới khác thì giữ nguyên hiệu lực của bản án sơ thẩm.
88/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1221
- 21
Kháng chiến chống Pháp, cụ Lên, cụ Tiền và cụ BĐ_Môn thoát ly tham gia kháng chiến; vợ chồng cụ Mệnh ở nhà với cha mẹ. Khoảng năm 1947, gian nhà ngoài bị giặc Pháp đánh sập. Khi cụ Tiền về hoạt động trong nội thành, đã cùng cha mẹ và các anh chị làm lại phần nhà này để làm quán bán hàng. Năm 1954, vợ chồng cụ Mệnh di cư vào miền Nam; cụ Tiền sống cùng cha mẹ. Năm 1966, bom Mỹ đánh sập gian nhà ngoài và phần lớn gian nhà trong; cả gia đình phải đi sơ tán. Năm 1967, cụ BĐ_Môn trở về thành phố HN công tác, đã làm lại gian nhà trong để gia đình ở. Năm 1968, cụ Lên về làm lại gian nhà ngoài và cùng vợ con ở từ đó. Cố Đề chết năm 1973. Cố Nguyên chết năm 1975. Hai cố chết đều không để lại di chúc. Cụ Mệnh chết năm 1984. Cụ Tiền yêu cầu Tòa án chia nhà đất của cố Đề, cố Nguyên tại số 46 phố NT cho các thừa kế. Ngày 02/6/2008, cụ Tiền chết. Sau khi cụ Tiền chết, những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của cụ Tiền là cụ NĐ_Dương Oánh Thu (vợ của cụ Tiền), bà NĐ_Nguyễn Thị Kiều, bà NĐ_Nguyễn Hoàng Âm, ông NĐ_Nguyễn Mạnh Hoàng, ông NĐ_Nguyễn Quốc Tước (các con của cụ Tiền) vẫn nhất trí với yêu cầu khởi kiện của cụ Tiền
636/2006/KDTM-ST Sơ thẩm Kinh doanh thương mại
- 2184
- 64
Tại phiên tòa hôm nay: Nguyên đơn: Yêu cầu BĐ_Công ty Xây dựng giao thông Mỹ Oanh thanh toán ngay số nợ vốn của 6 hợp đồng tín dụng là 10.985.712.120 đồng, nợ lãi tính đến ngày 13/12/2006 là 3.181.003.600 đồng và số tiền lãi phát sinh từ ngày 14/12/2006 cho đến ngày trả hết nợ vốn theo mức lãi suất nợ quá hạn đã thỏa thuận trong các hợp đồng tín dụng giữa hai bên.
380/2006/KDTM-ST Sơ thẩm Kinh doanh thương mại
- 2966
- 78
Tranh chấp hợp đồng mua bán hóa chất
Ngày 05/11/2003 NĐ_Công ty TNHH dịch vụ thương mại sản xuất Ngọc Hường có văn bản yêu cầu BĐ_Công ty TNHH Tocoro Mall khắc phục hậu quả thiệt hại nhưng không được BĐ_Công ty TNHH Tocoro Mall giải quyết. Do đó, NĐ_Công ty TNHH dịch vụ thương mại sản xuất Ngọc Hường đã làm đơn khởi kiện yêu cầu BĐ_Công ty TNHH Tocoro Mall phải bồi thường thiệt hại cho NĐ_Công ty TNHH dịch vụ thương mại sản xuất Ngọc Hường số tiền là 121.000USD.
43/2006/KDTM-ST Sơ thẩm Kinh doanh thương mại
- 1347
- 23
Tranh chấp hợp đồng thuê nhà xưởng
Theo đơn khởi kiện ngày 24 tháng 8 năm 2005 và tại các lời khai, nguyên đơn, NĐ_Công ty Điện máy - Xe đạp - Xe máy Lĩnh An trình bày: Nguyên đơn có ký hợp đồng cho bị đơn – BĐ_Công ty TNHH Nga Phương thuê nhà xưởng để làm việc tại 42 ngõ 67 phố ĐG, LB, HN. Do bị đơn vi phạm nghĩa vụ thanh toán tiền thuê theo hợp đồng, nên nay nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn chấm dứt hợp đồng với các yêu cầu sau: Bị đơn trả lại toàn bộ diện tích thuê. Hoàn trả toàn bộ tiền thuê nhà còn thiếu là 308.000.000 đồng và lãi là 24.976.875 đồng.