226/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 231
- 6
Vào năm 1998, ông NĐ_Thịnh, bà NĐ_Linh được cha mẹ là cụ BĐ_Nguyễn Văn Đan, cụ Dương Thị Đức cho 04 công đất tọa lạc tại ấp Tân Thành A, xã Tạ An Khương Nam, huyện Dầm Dơi, tỉnh Cà Mau. Năm 2000 cụ Dương Thị Đức chết, đến năm 2001 cụ BĐ_Nguyễn Văn Đan họp các con thống nhất cắt phần diện tích đất trên cho ông NĐ_Thịnh (ông BĐ_Đan có làm di chúc và được chính quyền địa phương xác nhận) nhưng chưa làm thủ tục chuyển quyền sử dụng đất. Năm 2002 ông NĐ_Thịnh cố phần đất trên cho vợ chồng ông LQ_Ngoan, bà LQ_Ken với giá 40 chỉ vàng 24k, thời hạn 04 năm. Đến khi hết hạn cố đất, ông NĐ_Thịnh chưa có điều kiện chuộc lại đất nên ông LQ_Ngoan, bà LQ_Ken tiếp tục quản lý, sử dụng đất.
225/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 300
- 5
Nguyên đơn ông NĐ_Phan Văn Sang trình bày: phần đất tranh chấp có diện tích 8.300m2 hiện nay do vợ chồng ông BĐ_Phạm Nghị Quân và bà LQ_Trương Mỹ Linh quản lý canh tác có nguồn gốc của ông Phan Văn Lắm (ông nội ông NĐ_Sang) để lại cho ông Phan Văn Út (cha ông NĐ_Sang). Ông Út canh tác đến năm 1986 để lại cho ông NĐ_Sang canh tác. Ông NĐ_Sang canh tác đến năm 1990 thì vợ chồng ông NĐ_Sang bỏ xuống huyện Ngọc Hiển làm ăn và có nhờ cháu là ông Phan Chí Thành đến trong coi nhà cửa và quản lý canh tác đất. Trước đó ông NĐ_Sang có thiếu nợ của vợ chồng ông BĐ_Quân 04 chỉ vàng 24K và số tiền 9.850.000 đồng. Khi ông NĐ_Sang đi được vài tháng thì vợ chồng ông BĐ_Quân có đến hỏi bà Phan Thị Hạnh (chị hai của ông NĐ_Sang) mượn phần đất của ông NĐ_Sang để cất nhà ở, bà Hạnh có hỏi ý kiến của ông NĐ_Sang và ông NĐ_Sang đồng ý.
223/2014/DS-GĐT: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 561
- 7
Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Vào ngày 19/8/2010, vợ chồng ông BĐ_Hứa Văn An, bà LQ_Phạm Thị Tuyết Phụng thỏa thuận chuyển nhượng cho bà NĐ_Nguyễn Thị Minh 3.912m2 đất thuộc thửa 64, tờ bản đồ số 29 tọa lạc tại ấp Xóm Lầm, xã TT, huyện DT, tỉnh BD với giá 2.000.000.000 đồng. Ngày 19/8/2010, bà NĐ_Minh giao cho ông BĐ_An, bà LQ_Phụng 1.000.000.000 đồng tiền đặt cọc. Ngày 08/9/2010 các bên ký hợp đồng chuyển nhượng tại Tư pháp xã TT và bà NĐ_Minh giao tiếp cho ông BĐ_An, bà LQ_Phụng 900.000.000 đồng. Bà NĐ_Minh đã nhận đất từ cuối năm 2010. Tổng số tiền bà NĐ_Minh giao cho ông BĐ_An, bà LQ_Phụng là 1.900.000.000 đồng. Ngày 07/9/2010, bà NĐ_Minh và ông BĐ_An, bà LQ_Phụng đến Ủy ban nhân dân xã TT ký hợp đồng chuyển nhượng diện tích đất trên với giá 450.000.000 đồng.
535/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 564
- 15
Theo đơn khởi kiện ngày 1/7/2010 và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn là bà NĐ_Đào Thị Thủy trình bày: Năm 1978 bà kết hôn với ông Bùi Bằng Kiên là con trai của cụ Bùi Văn Te và cụ BĐ_Hoàng Thị Sinh, cụ Tồ chết năm 2009. Sau khi lấy ông Kiên, vợ chồng bà ở chung với cha mẹ chồng. Năm 1980 vợ chồng bà chuyển ngôi nhà mái dạ đến phần đất của cụ Bùi Văn Kế (em trai cụ Te) để ở nhờ. Năm 1982 Hợp tác xã chia đất giãn dân, vợ chồng bà được chia nửa sào bắc bộ tại khu cổng cầu, thôn Xuân Trạch, Xuân Canh, ĐÀ. Việc cấp đất giãn dân không lập thành văn bản mà Hợp tác xã chỉ gọi các hộ gia đình ra nhận đất. Đợt được cấp đất giãn dân có 4 hộ, gồm vợ chồng bà, hộ ông Trí, ông LQ_Ban và ông Phúc. Phần đất của bà được cấp giáp với đất của ông LQ_Ban, ông Phúc.
534/2014/DS-GĐT: Đòi lại nhà đất cho ở nhờ Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 621
- 12
Năm 1966 cha mẹ vợ và các em vợ ông từ Bình Định lên KT sinh sống, dù khó khăn nhưng vẫn lấy lại 01 gian nhà đang cho thuê để cha mẹ ở nhờ bằng miệng, không viết giấy tờ, không thỏa thuận thời hạn. Từ năm 1972 đến năm 1975 do chiến tranh loạn lạc nên giấy tờ nhà bị thất lạc. Sau ngày 30/4/1975, ông BĐ_Đỗ Xuân Thuận (là em vợ) đưa vợ con từ Nha Trang lên KT, ông NĐ_Sinh cho ở nhờ 01 gian nhà tạm liền kề (phía Tây lô đất). Năm 1981 cụ Đỗ Châu (cha vợ) qua đời. Năm 1987 ông BĐ_Đỗ Xuân Thuận xin phép sửa lại nhà chống dột nhưng dỡ ra làm 01 gian, vì mẹ vợ là cụ Đặng Thị Phương còn sống nên ông không có ý kiến gì.