cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

90/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 612
  • 20

Tranh chấp hợp đồng vay tài sản

22-07-2013

Ngày 19/4/1994 chồng bà là ông Chang Shin Gung ký hợp đồng cho ông BĐ_Vương Kinh và vợ là bà BĐ_Mã Lệ Ly vay 1.300 lượng vàng SJC bốn số chín. Hợp đồng có thỏa thuận lãi suất tính theo mức quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho vay tiền ngoại tệ có thời hạn từ 06 tháng trở lên; thời hạn trả nợ là không có thời hạn, khi nào bên cho vay cần lấy lại số vàng thì báo cho bên vay trước 02 tháng. Ngày 28/01/2004 ông Chang Shin Gung chết, để lại di chúc chỉ định cho vợ là bà NĐ_Leung Woo Hye là người duy nhât được ủy thác và thực hiện bản di chúc. Theo di chúc, bà NĐ_Leung Woo Hye được quyền giải quyết mọi tài sản của ông Chang Shin Gung bao gồm động sản và bất động sản ở bất kỳ nơi đâu và thuộc bất kỳ tính chất, chủng loại nào. Vào các ngày 02/5/2007, 28/5/2007 và ngày 18/6/2007 đại diện cho bà NĐ_Leung Woo Hye đã gửi thư yêu cầu ông BĐ_Kinh, bà BĐ_Ly thanh toán khoản vay và lãi suất trong Hợp đồng vay vàng ngày 19/4/1994 nhưng tính đến nay ông BĐ_Kinh, bà BĐ_Ly vẫn chưa thanh toán


88/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1221
  • 21

Tranh chấp thừa kế

11-07-2013

Kháng chiến chống Pháp, cụ Lên, cụ Tiền và cụ BĐ_Môn thoát ly tham gia kháng chiến; vợ chồng cụ Mệnh ở nhà với cha mẹ. Khoảng năm 1947, gian nhà ngoài bị giặc Pháp đánh sập. Khi cụ Tiền về hoạt động trong nội thành, đã cùng cha mẹ và các anh chị làm lại phần nhà này để làm quán bán hàng. Năm 1954, vợ chồng cụ Mệnh di cư vào miền Nam; cụ Tiền sống cùng cha mẹ. Năm 1966, bom Mỹ đánh sập gian nhà ngoài và phần lớn gian nhà trong; cả gia đình phải đi sơ tán. Năm 1967, cụ BĐ_Môn trở về thành phố HN công tác, đã làm lại gian nhà trong để gia đình ở. Năm 1968, cụ Lên về làm lại gian nhà ngoài và cùng vợ con ở từ đó. Cố Đề chết năm 1973. Cố Nguyên chết năm 1975. Hai cố chết đều không để lại di chúc. Cụ Mệnh chết năm 1984. Cụ Tiền yêu cầu Tòa án chia nhà đất của cố Đề, cố Nguyên tại số 46 phố NT cho các thừa kế. Ngày 02/6/2008, cụ Tiền chết. Sau khi cụ Tiền chết, những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của cụ Tiền là cụ NĐ_Dương Oánh Thu (vợ của cụ Tiền), bà NĐ_Nguyễn Thị Kiều, bà NĐ_Nguyễn Hoàng Âm, ông NĐ_Nguyễn Mạnh Hoàng, ông NĐ_Nguyễn Quốc Tước (các con của cụ Tiền) vẫn nhất trí với yêu cầu khởi kiện của cụ Tiền


86/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 2303
  • 118

Yêu cầu hủy hợp đồng ủy quyền và hợp đồng đặt cọc

10-07-2013

Nguyên đơn yêu cầu: Hủy Hợp đồng đặt cọc giữa bà BĐ_Tiên và bà LQ_Thùy ngày 4/7/2007 về việc mua bán nhà số 9, tổ 37, HC; hủy Hợp đồng đặt cọc ngày 16/9/2008 giữa bà BĐ_Tiên và bà LQ_Thùy về việc chuyển nhượng lô đất Giấy chứng nhận số H26114 tại số 9 HC; hủy Hợp đồng ủy quyền giữa ông NĐ_Thu và bà BĐ_Tiên ngày 29/11/2006. Yêu cầu tiếp tục duy trì Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 63 ngày 27/02/2009 của Tòa án nhân dân thành phố NT về cấm chuyển dịch lô đất Giấy chứng nhận số H26114, diện tích 436m2 đứng tên ông NĐ_Thu.


84/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 654
  • 5

Tranh chấp thừa kế

08-07-2013

cụ Sinh và cụ Nghi để lại là căn nhà một lửng, hai lầu trên diện tích 89,43m2 đất, thửa số 169, tờ bản đồ số 03, tại 43 đường LB, khóm 6, phường 2, thành phố CM, tỉnh CM. Hiện nhà đất do bà BĐ_Trần Thu Tri đang quản lý, sử dụng (các đương sự thống nhất căn nhà này có giá trị 3.000.000.000đ (Ba tỷ đồng) và không yêu cầu định giá). Nay bà NĐ_Dân, ông NĐ_Thư cho rằng bản Di chúc ngày 16/10/2000 của cụ Sinh là không hợp pháp vì: di chúc không có mặt ông Trưởng khóm chứng kiến hay xác nhận; di chúc không vào sổ của phường 2; di chúc không xác định tình trạng sức khỏe của cụ Sinh tại thời điểm lập di chúc; các ông, bà không biết việc cụ Sinh lập di chúc; nội dung của di chúc không đề cập đến di sản của cụ Nghi (chết năm 1997).


82/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1180
  • 19

Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà, đất

08-07-2013

Ngày 24/12/1973, vợ chồng cụ LQ_Huệ tự ý bán một căn nhà lợp tole, vách ván, nền xi măng (nay là số 128/1 NVQ, khu phố 2, phường TTH, quận X) cho cụ Trương Chiến với giá 80.000 đồng (riêng phần đất thì không bán mà cụ Trương Chiến vẫn phải trả tiền thuê hàng năm là 500 đồng). Sau khi phát hiện cụ LQ_Huệ tự ý bán phần đất chung là phần nhà xây trên đất thừa kế thì cụ Nha tranh chấp từ năm 1990 và khởi kiện tại Tòa án nhân dân huyện HM, ngày 28/4/2006 cụ Nha chết. Nay ông đại diện cho các thừa kế của cụ Nha yêu cầu hủy việc mua bán nhà giữa cụ Mình, cụ LQ_Huệ với cụ Trương Chiến. Ông đồng ý hoàn trả tiền mua nhà và chi phí sửa chữa, đồng thời chấp nhận bồi thường thiệt hại, yêu cầu bà BĐ_Kinh (con của cụ Trương Chiến) trả nhà trong thời hạn 02 tháng, khi di dời sẽ hỗ trợ 50 triệu đồng. Trường hợp bà BĐ_Kinh muốn tiếp tục sử dụng nhà thì phải hoàn trả giá trị đất và thanh toán giá trị đất trong 6 tháng.