1220/2008/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 430
- 12
Nguyên cha, mẹ ông là Phạm Văn Hơn và Nguyễn Thị Yêm có 03 người con ruột là LQ_Phạm Thị Yến, NĐ_Phạm Văn Tranh (tức ông), BĐ_Phạm Văn Tính, ông LQ_Phạm Văn Dân chỉ là con nuôi. Cha ông chết năm 1947, còn mẹ ông chết năm 1997, khi còn sống cha mẹ ông có được các tài sản sau đây: Diện tích đất 6.402m2 đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 14/QSDĐ ngày 06-7-1996 của bà Nguyễn Thị Yêm. Diện tích đất 2.952m2, 5.172m2 trước đây được cấp lần lượt cho ông LQ_Phạm Văn Dân, ông BĐ_Trương Tấn Khanh theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 14/645.QSDĐ ngày 06/7/1996 của ủy ban nhân dân huyện CC (BL 166) và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 14/727.QSDĐ ngày 06-7-1996 của ủy ban nhân dân huyện CC, sau này được chuyển cho ông BĐ_Phạm Văn Tính quyền sử dụng 02 lô đất trên.
21/2008/HNGĐ-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 2457
- 91
Ly hôn và yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng
Theo ông NĐ_Bùi Văn Vinh trình bày: ông và bà BĐ_Nguyễn Thị Mộng kết hôn và chung sống từ năm 1985, ông bà có hai người con chung và có tài sản sản chung là căn nhà 8ố: 542 đường số 25 (NTT), khu phố CXM, thị trấn KL, huyện KL, KG. về căn nhà tuy là tài sản chung nhưng công sức đóng góp tạo dựng phần của ông là chính, vì ông làm trong công ty xi măng Hà Tiên II đã hơn 25 năm, được công ty bán hóa giá và tiền bạc ông đóng góp nhiều hơn vợ để mua căn nhà. Nay ông yêu cầu chia trị giá căn nhà làm ba phần ông hưởng hai phần và bà BĐ_Mộng một phần. Trị giá căn nhà thỏa thuận là 233.910.245đ, ngoài ra trong quá trình chung sống vợ ông có nợ bà LQ_Đình số tiền 168.672.500đ và 1.950 USD, ông xác nhận vợ ông có nợ bà LQ_Đình và ông dự định hỗ trợ tiếp với vợ ông trả nợ cho bà LQ_Đình nhưng bà LQ_Đình lại yêu cầu buộc vợ chồng ông trả nợ quá khắt khe (không thương lượng thỏa thuận được), nên ông yêu cầu chia tài sản chung để vợ ông có phần tiền riêng trả nợ cho bà LQ_Đình.
358/2008/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 801
- 16
Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Nguyên đơn bà NĐ_Võ Thị B trình bày: Ngày 10-5-2001 vợ chồng bà có ký biên bản thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng các thửa đất số 113,114, 155 tờ bản đồ số 8 xã PX, huyện NB cho BĐ_Công ty C, diện tích 4218m2 là 160.284.000 đồng, theo bà thì việc chuyển nhượng trên là do BĐ_Công ty C áp đặt thông qua Ủy ban nhân dân xã PX đã lừa dối vợ chồng Bà NĐ_Bằng việc thông báo là các thửa đất trên bị quy hoạch đền bù, trong khi đó những phần đất kế bên đất của Bà NĐ_BĐ_Công ty C lại mua với giá cao hơn là 300.000 đồng/m2. Nay bà yêu cầu BĐ_Công ty phải trả đúng giá với các hộ liền kề là 300.000 đồng, như vậy BĐ_Công ty phải trả thêm cho bà số tiền tổng cộng là 1.105.116.000 đồng.
16/2014/KDTM-ST Sơ thẩm Kinh doanh thương mại
- 1658
- 10
Tranh chấp hợp đồng mua bán cọc bê tông
Nguyên đơn NĐ_Công ty TNHH Minh Quân có ông Hoàng Đình Hùng đại diện theo ủy quyền trình bày: tại đơn khởi kiện ngày 03/03/2014; bản tự khai ngày 28/7/2014 và các tài liệu chứng cứ do nguyên đơn cung cấp thì nội dung việc kiện ngày 18/12/2010 giữa NĐ_Công ty TNHH Minh Quân (Gọi tắt là NĐ_Công ty TNHH Minh Quân) và BĐ_Công ty Cổ phần Đầu tư xây dựng VUB (gọi tắt là BĐ_Công ty VUB) có ký kết hợp đồng mua bán cọc Bêtong Ly tâm D500. Nội dung hợp đồng ký kết BĐ_Công ty VUB mua và NĐ_Công ty TNHH Minh Quân cung cấp cọc bêtông ứng suất trước 500 cho công trình, với khối lượng tạm tính 7.332.600.000 đồng (đã bao gồm thuế VAT 10%); đơn giá trên bao gồm chi phí vận chuyển, nhưng không bao gồm chi phí cẩu cọc xuống công trình. Phương thức thanh toán bằng đồng Việt nam; Thời gian thanh toán không quá 7 ngày kể từ ngày cuối cùng giao hàng.
41/2014/KDTM-ST Sơ thẩm Kinh doanh thương mại
- 1003
- 25
Yêu cầu thực hiện nghĩa vụ thanh toán
Ngày 08/3/2010, NĐ_Công ty TNHH Phân phối Thành An (sau đây viết tắt là NĐ_Công ty Thành An) và BĐ_Công ty TNHH Xuất Nhập Khẩu Phúc Ân (sau đây viết tắt là BĐ_Công ty Phúc Ân) có ký kết Hợp đồng nguyên tắc số 011-2010/FDC-HCM/HĐNT-FHP-PHUCAN về việc mua bán hàng hóa thường xuyên, theo đó quy định “Phương thức thanh toán: “bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản hoặc hình thức khác tuỳ theo thoả thuận của hai bên trong từng giao dịch hoặc quy định cụ thể trong từng hợp đồng mua bán”. Thực hiện hợp đồng nguyên tắc này, NĐ_Công ty Thành An đã giao hàng cho BĐ_Công ty Phúc Ân các đợt hàng, có biên bản bàn giao thiết bị và xuất hóa đơn cho BĐ_Công ty Phúc Ân nhưng phía BĐ_Công ty Phúc Ân đã không thực hiện đúng nghĩa vụ thanh toán của mình.