cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

1309/2014/DSPT: Đòi lại tài sản Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 2342
  • 66

Đòi lại tài sản

25-09-2014
TAND cấp tỉnh

Theo đơn khởi kiện ngày 05 tháng 11 năm 2012 và lời khai tại tòa, nguyên đơn - bà NĐ_Võ Thùy Linh trình bày: Do quen biết nên khi bà BĐ_Nguyễn Thị Minh Hoa mượn 20.000.000.000đồng và hứa hẹn sẽ trả lại trong thời gian ngắn, ngày 20/5/2009 bà đã chuyển khoản cho bà BĐ_Hoa 16.730.000.000đồng thông qua Ngân hàng Thương mại cổ phần Phương Nam - Phòng giao dịch Nguyễn Duy Dương (sau đây gọi tắt là Ngân hàng Phương Nam – PGD Nguyễn Duy Dương) theo đề nghị của bà BĐ_Hoa (thời điểm này bà NĐ_Linh không có đủ 20.000.000.000đồng). Vì tin tưởng bà BĐ_Hoa nói cần vốn làm dự án kinh doanh và sẽ bán nhà, đất hoặc đưa tài sản trả nợ sớm nên bà không viết giấy, không yêu cầu trả lãi, hơn nữa đã có lưu phiếu chuyển tiền. Nhiều lần bà yêu cầu bà BĐ_Hoa trả nợ nhưng bà BĐ_Hoa né tránh không gặp mặt. Bà đã gửi thông báo đòi nợ bà BĐ_Hoa cũng không trả lời nên bà đã gửi đơn tố cáo hành vi chiếm đoạt tiền của bà BĐ_Hoa đến Phòng Cảnh sát Điều tra - Công an Thành phố HCM. Ngày 01/11/2012, Phòng Cảnh sát Điều tra - Công an Thành phố HCM gửi cho bà Phiếu hướng dẫn số 1344/HD-PC45 (Đ1) về việc hướng dẫn bà nộp đơn kiện bà BĐ_Hoa tại Toà án nhân dân Quận X, Thành phố HCM.


336/2014/DS-ST: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 382
  • 3

Tranh chấp hợp đồng vay tài sản

24-09-2014
TAND cấp huyện

Do cần vốn làm ăn nên ngày 01/10/2013, bà BĐ_Phan Thị Thủy có hỏi vay của bà số tiền 80.000.000 (tám mươi triệu) đồng và cùng ngày cả hai đã ra Phòng công chứng Đầm Sen (địa chỉ: 277 đường Minh Phụng, Phường 2, Quận T, Thành phố HCM) ký Hợp đồng vay tiền (theo Hợp đồng vay tiền số công chứng 00023891, quyển số 08, ngày 01/10/2013), thời hạn vay từ ngày 01/10/2013 đến ngày 24/12/2013, thỏa thuận lãi suất là 1,1%/tháng và ngay trong ngày ký hợp đồng, bà BĐ_Thủy đã nhận đủ số tiền 80.000.000 đồng. Nhưng từ khi nhận tiền, bà BĐ_Thủy chỉ trả cho bà được 1.000.000 (một triệu) đồng tiền lãi rồi ngưng luôn cho đến nay, mặc dù bà đã nhiều lần gọi điện thoại nhắc nhở, nhưng bà BĐ_Thủy vẫn không thực hiện.


Yêu cầu đòi “phạt chồng phạt và lãi chồng lãi” 5% trên số dư nợ gốc và lãi của ngân hàng bị Tòa bác cho dù kháng cáo nhiều lần Giám đốc thẩm Kinh doanh thương mại

  • 4437
  • 122

Tranh chấp hợp đồng tín dụng

30-10-2015

Thỏa thuận này của các bên là trái với quy định của pháp luật vì việc các bên thỏa thuận tại Điều 3 của Hợp đồng tín dụng “lãi suất nợ quá hạn: 150% X lãi suất trong hạn”, về bản chất lãi suất nợ quá hạn đã là một biện pháp phạt vi phạm hợp đồng, nên tại Điều 15 của Hợp đồng nêu trên, các bên còn thỏa thuận bên vay “phải chịu thêm khoản tiền phạt là 5% trên số dư nợ gốc và lãi” là phạt chồng phạt và lãi chồng lãi, Tòa án cấp phúc thẩm buộc BĐ_Công ty Hà Khoa phải thanh Toán cho Ngân hàng khoản tiền này là không đúng pháp luật.


356/2014/KDTM-ST: Tranh chấp thanh toán L/C ngân hàng (letter of credit) trong HĐ mua bán hàng hóa quốc tế Sơ thẩm Kinh doanh thương mại

  • 7175
  • 199

Tranh chấp hợp đồng mua bán hạt điều

07-04-2014
TAND cấp tỉnh

Ngày 07/6/2011 NĐ_Công ty TNHH Một thành viên Thương mại Dịch vụ Phát Huy (từ đây gọi tắt là Bên mua) và BĐ_Công ty Ms Nami Commodities Ltd (từ đây gọi tắt là Bên bán) có ký hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế số FARCOM/RCN/IVC/036/2011 ngày 07/6/2011 (từ đây gọi tắt là Hợp đồng). Theo nội dung Hợp đồng thỏa thuận Bên mua mua hạt điều thô nguồn gốc Ivory Coast, số lượng là 1000 tấn x l,385,50USD/tấn theo phương thức thanh toán 98% L/C trả chậm trong vòng 90 ngày kể từ ngày giao hàng dựa trên vận tải đơn (B/L) theo tiêu chuẩn chất lượng như sau: Thu hồi 471bs/80kg và có quyền từ chối nhận hàng khi thu hồi dưới 451bs Hạt: số hạt tối đa là 205/kg .Từ chối là 220 hạt/kg Độ ẩm tối đa là 10% - Từ chối độ ẩm là trên 12%.


64/2014/KDTM-GĐT: Tranh chấp hợp đồng tín dụng Giám đốc thẩm Kinh doanh thương mại

  • 747
  • 24

Tranh chấp hợp đồng tín dụng

27-11-2014

Mặc dù quá trình giải quyết vụ án, bà BĐ_Chung, anh BĐ_Mạnh đã thừa nhận số nợ gốc, nợ lãi như đại diện Ngân hàng trình bày. Tòa án cấp sơ thẩm đã quyết định chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng buộc bà BĐ_Chung, anh BĐ_Mạnh có trách nhiệm thanh toán số nợ nêu trên là có căn cứ. Tuy nhiên, việc Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: “Kể từ ngày bản án có hiệu lực và NĐ_Ngân hàng phát triển nhà Cẩm Vân (do NĐ_Ngân hàng phát triển nhà Cẩm Vân - Chi nhánh tỉnh VL đại diện) thì bà BĐ_Nguyễn Thị Chung và anh BĐ_Nguyễn Công Mạnh còn phải chịu lãi suất theo quy định tại Khoản 2 Điều 305 của Bộ Luật dân sự cho đến khi thi hành án xong” là không đúng. Trường hợp này cần phải tuyên buộc bà BĐ_Chung, anh BĐ_Mạnh tiếp tục phải chịu tiền lãi theo mức lãi suất thỏa thuận tại hợp đồng tín dụng trên số nợ gốc kể từ sau ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi trả hết số nợ gốc.