60/2014/DS-GĐT: Tranh chấp tài sản thuộc sở hữu chung Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 711
- 6
Tranh chấp tài sản thuộc sở hữu chung
Theo đơn khởi kiện đề ngày 16/8/2011 và quá trình tố tụng nguyên đơn bà NĐ_Nguyễn Thị Chi trình bày: Hai cụ Nguyễn Văn Bền và LQ_Trần Thị Linh có 05 người con (bà LQ_Nguyễn Thị Chân, LQ_Nguyễn Thị Mỹ Dân, LQ_Nguyễn Văn Tân, BĐ_Nguyễn Văn Minh, NĐ_Nguyễn Thị Chi). Trước khi hy sinh (năm 1973), cụ Bền có cho bà NĐ_Chi 01 lượng vàng. Năm 1977, bà NĐ_Chi góp 01 lượng vàng cho mẹ là cụ LQ_Linh nhận chuyển nhượng 01 lô đất, diện tích hơn 2.000m2 trên có một căn nhà cấp 4 diện tích 64m2 tại 49/31 PHT, phường 10, thành phố ĐL, tỉnh LĐ của cụ Đường với giá là 2.800đ (giá vàng khi đó 1.500đ/ lượng). Việc chuyển nhượng này do ông LQ_Tân (anh cả) đứng ra giao dịch thay cho mẹ. Sau khi chuyển nhượng, cả gia đình cùng sinh sống trên diện tích đất này, đến năm 1991 bà NĐ_Chi mới chuyển ra ngoài sinh sống vì mâu thuẫn với ông BĐ_Minh.
59/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 325
- 7
Năm 1930 cha mẹ các cụ là cố Nguyễn Lượng (chết 1945) và cố Lê Thị Bảy (chết năm 1948) khai hoang đất và dựng nhà ở (hiện nay là số 25 PCT, thành phố KT, tỉnh KT), năm 1937 được chính quyền chế độ cũ cấp quyền sở hữu diện tích 1415m2 đất. Hai cố có 5 người con là cụ NĐ_Nguyễn Thị Lân (tức Long), cụ Nguyễn Thị Báu, cụ NĐ_Nguyễn Thị Thủy, cụ LQ_Nguyễn Văn Man và cụ Nguyễn Lành, cố Lượng chết năm 1945, cố Bẩy chết năm 1948 đều không để lại di chúc.
57A/2014/DS-GĐT: Truy nhận cha cho con Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 719
- 8
Nguyên đơn trình bày: Ông là con của ông Đinh Phục Ba và bà LQ_Lê Thị Thường, vì chiến tranh nên khai sinh gốc không còn, theo Nghị định 83 ông đã khai sinh lại. Năm 2010 phát sinh tranh chấp giữa ông và các cô của ông nên Sở Tư pháp có công văn 541 hướng dẫn truy nhận cha cho con tại Toà. Bà BĐ_Sân, bà BĐ_Ninh, bà BĐ_Đương và bà BĐ_Linh không thừa nhận ông là con của ông Ba và bà Thuyền nên ông đề nghị Toà án giải quyết truy nhận ông Ba và bà Thuyền là cha mẹ của ông. Ông cung cấp giấy xác nhận của ông Đỗ Văn Tép, ông Trần Văn Ngọc, ông Đinh Hữu Út, bà Phan Thị Trinh và bà Trần Thị Điển, ngoài ra ông không còn chứng cứ khác đế cung cấp và ông không yêu cầu giám định gien. Nay ông yêu cầu giải quyết theo quy định của pháp luật.
57/2014/DS-GĐT: Ly hôn Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 545
- 7
Nguyên đơn chị NĐ_Nguyễn Thuý Hoa trình bày: Chị và anh BĐ_Đương kết hôn ngày 6/9/1994 tại Uỷ ban nhân dân phường Thanh Xuân Trung, quận Thanh Xuân, thành phố HN. Vợ chồng chung sống hoà thuận đến năm 2006 thì nảy sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do hai bên không hòa hợp về tính cách, bất đồng quan điểm sống, không thống nhất trong kinh tế gia đình, vợ chồng không còn tôn trọng nhau, hai bên sống ly thân từ năm 2007; nay chị xin ly hôn. Về con chung: Có 2 con chung là cháu Nguyễn Phương Nhi, sinh ngày 2/11/1994 và cháu Nguyễn Tiến Đạt, sinh ngày 22/1/2001. Chị đề nghị được nuôi 2 cháu và yêu cầu anh BĐ_Đương cấp dưỡng nuôi con 3.000.000đ/tháng.
56A/2014/DS-GĐT: Tranh chấp tài sản sau ly hôn Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 740
- 13
Chị NĐ_Vy kết hôn anh BĐ_Hiền ngày 25/4/1994, có đăng ký kết hôn tại ủy ban nhân dân xã Krông Buk, huyện KP. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2001 thì phát sinh mâu thuẫn. Tháng 11/2001, chị NĐ_Vy bỏ về quê ngoại ở tỉnh KH làm ăn sinh sống. Do chị NĐ_Vy đi khỏi địa phương hơn 2 năm mà không đăng ký tạm vắng tại chính quyền địa phương, đồng thời anh BĐ_Hiền cũng không biết tin tức, địa chỉ của chị NĐ_Vy nên ngày 10/02/2004, anh BĐ_Hiền gửi đơn đến Tòa án nhân dân huyện KP yêu cầu tuyên bố chị NĐ_Vy mất tích.