cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

74/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 252
  • 3

Tranh chấp thừa kế

26-06-2013

Năm 1981 cụ Tú chết không để lại di chúc. Năm 2001 cụ NĐ_Cùng không ở nhà 238/29 TC mà chuyển về HM ở cùng với cháu. Hiện ông LQ_Tý và bà BĐ_Thoa cùng quản lý, sử dụng nhà đất trên, ông LQ_Tý ở phía trước, bà BĐ_Thoa ở phía sau. Năm 2002 ông LQ_Tý làm thủ tục đăng ký kê khai cho hai cụ và vợ chồng cụ đã được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở. Năm 2003 bà BĐ_Thoa mượn sổ đỏ để thế chấp ngân hàng nhưng cụ không cho mượn nên bà BĐ_Thoa mới tranh chấp phần đất phía sau. Ngày 21/12/2007 Uỷ ban nhân dân quận Y đã có Quyết định số 1059 thu hồi và hủy bỏ giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất đã cấp cho hai cụ. Cụ yêu cầu xác định toàn bộ nhà đất số 238/29 TC là của vợ chồng cụ và chia di sản thừa kế của cụ Tú để lại. Đồng thời cụ yêu cầu phát mãi toàn bộ tài sản để cụ nhận phần của cụ theo quy định của pháp luật.


64/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 427
  • 15

Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

12-06-2013

ông, bà yêu cầu ông BĐ_Thôi, bà BĐ_Thoa tiếp tục thực hiện Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 14/4/1994 và phải làm thủ tục tách sổ đỏ đối với diện tích đất đã chuyển nhượng cho ông, bà. Nếu Tòa án công nhận hợp đồng này thì ông, bà vẫn tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với anh LQ_Du, chị LQ_Vy và không yêu cầu Tòa án giải quyết; ông, bà đồng ý trả cho anh LQ_Du, chị LQ_Vy số tiền tương ứng với diện tích đất mà anh LQ_Du, chị LQ_Vy đã trả theo giá tại Biên bản định giá ngày 22/4/2008 là 4 triệu đồng/m2. Trường hợp Tòa án không công nhận hợp đồng này thì ông, bà sẽ có trách nhiệm bồi thường cho anh LQ_Du, chị LQ_Vy do không thực hiện được hợp đồng, việc bồi thường theo giá thị trường. Ông, bà yêu cầu ông BĐ_Thôi, bà BĐ_Thoa thanh toán giá trị quyền sử dụng 5,5m2 đất đã mua của bà LQ_Ngọ và sau đó đã đổi cho ông LQ_Khoa, bà LQ_Lý theo giá thị trường.


62/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 3313
  • 163

Đòi lại tài sản

12-06-2013

Tại Biên bản giao dịch mua bán cổ phiếu ngày 30/7/2004 có nội dung ông NĐ_Tiền còn nợ BĐ_Công ty phần vốn góp là 149 triệu đồng. BĐ_Công ty có đơn phản tố yêu cầu ông NĐ_Tiền phải thanh toán phần yốn góp chưa nộp là 149 triệu đồng. Do đó, khi giải quyết lại vụ án, Tòa án cần làm rõ nếu giữa ông NĐ_Tiền và BĐ_Công ty thỏa thuận đồng ý cho ông NĐ_Tiền rút vốn (trả bằng tiền hoặc bằng nền đất), các bên không còn tiếp tục hợp tác kinh doanh và không còn tranh chấp gì khác thì đó là tranh chấp về dân sự; còn nếu trong trường hợp việc chuyển nhượng vốn giữa ông NĐ_Tiền với BĐ_Công ty chưa hoàn thành, các bên co tranh chấp về giá trị chuyển nhượng, tranh chấp về phần vốn góp thì phải xác định đây là tranh chấp trong lĩnh vực kinh doanh thương mại.


61/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 427
  • 12

Đòi lại tài sản

11-06-2013

Trước năm 2002, ông và vợ là bà LQ_Nguyễn Thị Toàn định cư tại Hoa Kỳ. Do có nhu cầu trở về Việt Nam sinh sống và kinh doanh nên vào năm 2002 vợ chồng ông có gửi số tiến 44.400 USD về cho vợ chồng bà BĐ_Nguyễn Thị Tiến, ông LQ_Nguyễn Văn Ninh nhận chuyển đất và xây nhà ở, để sau này vợ chồng ông về định cư tại Việt Nam. Các lần gửi tiền đều có giấy nhận tiền. Thực tế, số tiền vợ chồng bà BĐ_Tiến, ông LQ_Ninh nhận được của vợ chồng ông đã nhận chuyển nhượng diện tích 178,2m2 đất, tại thửa số 1228 (nay là thửa số 4121), tờ bản đồ số 05, ấp TT, xã TA, huyện BM, tỉnh VL và xây dựng căn nhà diện tích 58,7m2. Ông yêu cầu được sở hữu toàn bộ nhà và đất nêu trên, ông đồng ý trả cho bà LQ_Nguyễn Thị Tiến một nửa của số tiền 44.400 USD và 18.675.000đ.


60/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1102
  • 27

Tranh chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất

11-06-2013

Nguồn gốc thửa đất diện tích 3 sào 8 thước tại tổ 9, khu vực 9, phường TQD, thành phố QN, tỉnh BĐ là của cha mẹ bà là vợ chồng cụ Nguyễn Sinh, cụ Nguyễn Thị Hoa (hai cụ được chế độ cũ cấp trích lục địa bộ). Bà được cha mẹ cho 300m2 trong tổng số diện tích đất nêu trên. Năm 1957, bà dựng một căn nhà mái lợp tranh, tường trát đất, nền gạch thẻ, diện tích 10m2. Năm 1960, gia đình cụ Lê Văn Ên (là cha của ông BĐ_Lê Văn Mã) tản cư, đến xin ở nhờ; việc cho ở nhờ chỉ nói miệng. Năm 1975 căn nhà dột nát, bà đồng ý để cụ Ên sửa chữa lại. Sau đó cụ Ên sửa chữa nhiều lần và nới rộng diện tích nhà rồi giao lại cho ông BĐ_Mã quản lý, sử dụng. Khoảng năm 1995, bà đến gặp ông BĐ_Mã đòi lại nhà, nhưng vợ chồng ông BĐ_Mã không trả. Nay bà yêu cầu ông BĐ_Mã trả lại nhà, đất cho bà.