cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

05/2011/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1169
  • 10

Yêu cầu chia thừa kế

18-03-2011

Theo đơn khởi kiện ngày 01/10/2006 và lời khai của ông Phạm Văn Nghị (đại diện cho bà NĐ_Liên) trong quá trình tố tụng thì: cha mẹ bà NĐ_Liên là cụ Bùi Trọng Minh (chết năm 1973 không để lại di chúc) và cụ Nguyễn Thị Nguyệt (chết năm 1997 không để lại di chúc) sinh được 05 người con: ông BĐ_Bùi Trọng Sinh, bà NĐ_Bùi Thị Liên, bà BĐ_Bùi Thị Linh, ông BĐ_Bùi Trọng Thắng và ông Bùi Trọng Thủy (ông Thủy chết năm 2005). Khi còn sống, cụ Minh, cụ Nguyệt tạo lập được khối tài sản gồm: 01 lô đất 1,9ha tại ấp AL, xã BH nay là khối 8, thị trấn BH, huyện KB, ĐL (cụ Nguyệt đã bán 4000m2 đất cho ông Ngô Đình Chi); 01 nhà và đất tọa lạc tại khu vực chợ Phú Cường, thị trấn BH (ông BĐ_Bùi Trọng Sinh đã bán). Sau khi cụ Nguyệt chết thì ông BĐ_Sinh, ông BĐ_Thắng, ông Thủy, bà BĐ_Linh đã tự ý phân chia 1,5ha đất mà không có sự đồng ý của bà NĐ_Liên. Nay, bà NĐ_Liên yêu cầu phân chia di sản thừa kế của cha mẹ theo quy định pháp luật. Riêng phần đất mà ông Thủy đã đựợc chia trước đây trong lô đất 1,5ha nếu ông BĐ_Sinh, ông BĐ_Thắng và bà BĐ_Linh thống nhất không yêu cầu chia thì bà NĐ_Liên đồng ý không tranh chấp và chỉ yêu cầu chia phần đất còn lại. Ngoài ra, bà NĐ_Liên còn gửi về cho bà BĐ_Linh số tiền 130.000.000đ để bà BĐ_Linh trả nợ cho cụ Nguyệt nên bà NĐ_Liên yêu cầu được hoàn trả lại số tiền này.


05/2011/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1156
  • 6

Tranh chấp thừa kế

18-03-2011

Theo đơn khởi kiện ngày 01/10/2006 và lời khai của ông Phạm Văn Nghị (đại diện cho bà NĐ_Liên) trong quá trình tố tụng thì: cha mẹ bà NĐ_Liên là cụ Bùi Trọng Minh (chết năm 1973 không để lại di chúc) và cụ Nguyễn Thị Nguyệt (chết năm 1997 không để lại di chúc) sinh được 05 người con: ông BĐ_Bùi Trọng Sinh, bà NĐ_Bùi Thị Liên, bà BĐ_Bùi Thị Linh, ông BĐ_Bùi Trọng Thắng và ông Bùi Trọng Thủy (ông Thủy chết năm 2005). Khi còn sống, cụ Minh, cụ Nguyệt tạo lập được khối tài sản gồm: 01 lô đất 1,9ha tại ấp AL, xã BH nay là khối 8, thị trấn BH, huyện KB, ĐL (cụ Nguyệt đã bán 4000m2 đất cho ông Ngô Đình Chi); 01 nhà và đất tọa lạc tại khu vực chợ Phú Cường, thị trấn BH (ông BĐ_Bùi Trọng Sinh đã bán). Sau khi cụ Nguyệt chết thì ông BĐ_Sinh, ông BĐ_Thắng, ông Thủy, bà BĐ_Linh đã tự ý phân chia 1,5ha đất mà không có sự đồng ý của bà NĐ_Liên. Nay, bà NĐ_Liên yêu cầu phân chia di sản thừa kế của cha mẹ theo quy định pháp luật. Riêng phần đất mà ông Thủy đã đựợc chia trước đây trong lô đất 1,5ha nếu ông BĐ_Sinh, ông BĐ_Thắng và bà BĐ_Linh thống nhất không yêu cầu chia thì bà NĐ_Liên đồng ý không tranh chấp và chỉ yêu cầu chia phần đất còn lại. Ngoài ra, bà NĐ_Liên còn gửi về cho bà BĐ_Linh số tiền 130.000.000đ để bà BĐ_Linh trả nợ cho cụ Nguyệt nên bà NĐ_Liên yêu cầu được hoàn trả lại số tiền này.


559/2009/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 397
  • 10

Ly hôn

18-11-2009

Tại đơn xin ly hôn đề ngày 10/12/2004 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là anh Lã Văn Quảng trình bày: Anh và chị Lê Thị Việt (tức Hà) kết hôn tự nguyện ngày 10/5/1986 tại Đại sứ quán Việt Nam ở Bungari. Quá trình chung sống sinh được 2 con chung là các cháu Lã Quang Tùng sinh ngày 15/6/1988, Lã Quang Lâm sinh ngày 09/3/1992; về tài sản chung có đồ dùng sinh hoạt và một số tài sản khác; về nhà ở gồm có căn hộ số 7, số 8 A3 Yên Bái, phường phố Huế, HN (do vợ chồng mua lại của ông Phạm Mạnh Hùng và bà Vũ Thị Kim Xuyến) và 2 căn hộ này vẫn thuộc sở hữu nhà nước do xí nghiệp quản lý nhà quận HBT quản lý. Hiện 2 căn hộ trên đã được vợ chồng anh cải tạo, sửa chữa cùng với căn hộ số 4 A3 của bà Nguyện Thị Thành (tức Thường- mẹ của anh) và cơi nới, làm thêm tầng 3 thành căn hộ khép kín, bịt cầu thang không đi chung cầu thang tập thể mà làm cầu thang đi riêng trong căn hộ khép kín này. Ngoài ra, vợ chồng anh còn một căn hộ 304 A10 Đầm Trấu, phường Bạch Đằng, HN do vợ anh mua của ông Đàm Quốc Khánh, nhưng đứng tên anh Nghiêm Xuân Thắng (là cháu ruột của vợ anh) với giá 420.000.000 đồng, vì anh ghi âm được cuộc nói chuyện giữa vợ anh với anh Thắng nên anh xác định căn hộ này là tài sản chung của vợ chồng; về cửa hàng D3 tập thể Nguyễn Công Trứ, năm 1990 bà Thành thuê 2,4m2 với Ủy ban nhân dân phường phố Huế để vợ chồng anh đang kinh doanh, sau đó vợ chồng anh mua thêm của 3 người khác nên diện tích cửa hàng hiện nay là 18m2.


23/2009/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 397
  • 2

Yêu cầu chia thừa kế

04-09-2009

Tại đơn khởi kiện năm 2001 và trong quá trình giải quyết, nguyên đơn là ông NĐ_Đặng Chí Lân trình bày: Vợ chồng cụ Đặng Văn Thiệp (chết năm 1967), cụ Nguyễn Thị Vốn (chết năm 1994) có 9 người con chung là các ông bà LQ_Nguyễn Thị Linh, NĐ_Đặng Chí Lân, LQ_Đặng Chí Tân, LQ_Đặng Thị Cầm, BĐ_Đặng Thị Uyên, LQ_Đặng Thị Mỹ Nga, Đặng Văn Nhơn (ông Nhơn bị tâm thần, đã giết chết mẹ vợ cùng con gái, sau đó bỏ đi từ 1988, có vợ là LQ_Đặng Thị Nhân và con là LQ_Đặng Thị Giang), LQ_Đặng Thị Mỹ Chi, LQ_Đặng Văn Thành. Về tài sản vợ chồng cụ Thiệp tạo lập được căn nhà số 15 đường QT, ấp Lộc Thành, thị trấn TB (hiện do ông LQ_Thành quản lý sử dụng) và diện tích 6.930 m2 (số đo thực tế 6.270,5 m2) đất vườn tại ấp Phước Đức, xã PĐ, huyện GD, tỉnh TN (hiện vợ chồng bà BĐ_Uyên đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với 3.400 m2, phần còn lại do ông LQ_Tân sử dụng nhưng chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất). Ông NĐ_Lân yêu cầu chia thừa kế toàn bộ diện tích đất nêu trên cho các thừa kế của hai cụ; riêng căn nhà số 15 QT để cho ông LQ_Thành quản lý làm nơi thờ cúng, không yêu cầu chia.


23/2009/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 432
  • 1

Tranh chấp thừa kế

04-09-2009

Tại đơn khởi kiện năm 2001 và trong quá trình giải quyết, nguyên đơn là ông NĐ_Đặng Chí Lân trình bày: Vợ chồng cụ Đặng Văn Thiệp (chết năm 1967), cụ Nguyễn Thị Vốn (chết năm 1994) có 9 người con chung là các ông bà LQ_Nguyễn Thị Linh, NĐ_Đặng Chí Lân, LQ_Đặng Chí Tân, LQ_Đặng Thị Cầm, BĐ_Đặng Thị Uyên, LQ_Đặng Thị Mỹ Nga, Đặng Văn Nhơn (ông Nhơn bị tâm thần, đã giết chết mẹ vợ cùng con gái, sau đó bỏ đi từ 1988, có vợ là LQ_Đặng Thị Nhân và con là LQ_Đặng Thị Giang), LQ_Đặng Thị Mỹ Chi, LQ_Đặng Văn Thành. Về tài sản vợ chồng cụ Thiệp tạo lập được căn nhà số 15 đường QT, ấp Lộc Thành, thị trấn TB (hiện do ông LQ_Thành quản lý sử dụng) và diện tích 6.930 m2 (số đo thực tế 6.270,5 m2) đất vườn tại ấp Phước Đức, xã PĐ, huyện GD, tỉnh TN (hiện vợ chồng bà BĐ_Uyên đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với 3.400 m2, phần còn lại do ông LQ_Tân sử dụng nhưng chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất). Ông NĐ_Lân yêu cầu chia thừa kế toàn bộ diện tích đất nêu trên cho các thừa kế của hai cụ; riêng căn nhà số 15 QT để cho ông LQ_Thành quản lý làm nơi thờ cúng, không yêu cầu chia.