06/2009/KDTM-PT: Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa khác Phúc thẩm Kinh doanh thương mại
- 1109
- 33
Tranh chấp mua bán hàng hóa khác
Từ tháng 6/2007 đến tháng 11/2007 Valaspa Malaysia đã bán và giao cho BĐ_Công ty Hà Sang một số sản phẩm sơn và chất phủ bề mặt dùng cho các sản phẩm gỗ với tổng số tiền bán hàng là 383.933,23 USD. BĐ_Công ty Hà Sang đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán và sau nhiều lần đã cam kết và hứa thanh toán số tiền nêu trên cho Valaspa Malaysia chậm nhất vào ngày 20/11/2007. Sau nhiều lần đòi nợ BĐ_Công ty Hà Sang mới thanh toán tính đến ngày 12/11/2007 là 100.000,00 USD. Số tiền còn lại chưa thanh toán là 283.933,23 USD.
170/2008/KDTM-PT: Tranh chấp hợp đồng vận chuyển hàng hóa Phúc thẩm Kinh doanh thương mại
- 2129
- 37
Tranh chấp hợp đồng vận chuyển hàng hóa
NHẬN THẤY Theo đơn khởi kiện ngày 24/3/2008, nguyên đơn là NĐ_Công ty TNHH Vận tải biển Chi Tiên do bà Nguyễn Thị Nghiệp là Giám đốc, có bà Lê Thị Minh Thư - đại diện trình bày thì giữa nguyên đơn và bị đơn có thỏa thuận ký hợp đồng kinh tế số 23-02-08/LV-HĐVC hợp đồng vận chuyển hàng hóa ngày 23 tháng 02 năm 2008. Với nội dung vận chuyển 2000 tấn phân MOP từ cảng Xinxing Hainan, Trung Quốc về cảng thành phố HCM, Việt Nam, cước vận chuyển là 22 USD/tấn (FIOT BSS 1/1), thời gian dự kiến xếp hàng là ngày 25-27/02/2008, mức xếp/mức dỡ tổng cộng 7 ngày sử dụng cho cả hai đầu cảnh (Trong điều kiện thời tiết tốt và trừ trường hợp bất khả kháng).
1502/2008/KDTM-PT: Tranh chấp hợp đồng thuê tài sản Phúc thẩm Kinh doanh thương mại
- 788
- 9
Tranh chấp hợp đồng thuê tài sản
Theo đơn khởi kiện của nguyên đơn NĐ_Tổng công ty Lý Sơn ngày 04/6/2008 và trình bày của ông Nguyễn Trọng Minh đại diện NĐ_Tổng công ty Lý Sơn cùng đại diện cho LQ_Công ty cổ phần đầu tư xây đựng phát triển nhà Hoa My là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan thì theo hợp đồng thuê sạp chợ BP lập ngày 31/08/2001 (Hợp đồng số 305/HĐTS-/2001) thì ông BĐ_Phạm Quốc Đăng Khiêm có thuê của Công ty xây dựng và phát triển kinh tế quận S (nay là LQ_Công ty cổ phần đầu tư Biên Hạ) sạp số 6 mã số C1 chợ BP, phường 10 quận S diện tích 3m2 để kinh doanh mùng, mền chiếu, gối, thời hạn thuê là 5 năm tính từ ngày giao sạp chợ (22/8/2001), trị giá hợp đồng là 27.775.000 đồng/5 năm. Ông BĐ_Khiêm có vi phạm về thời hạn thanh toán tiền, nhưng đã thanh toán theo phương thức trả góp là 31.571.100 đồng xong. Sau khi ký kết hợp đồng nêu trên, ông BĐ_Khiêm để sạp cho bà LQ_Nguyễn Thị Ngân là mẹ ruột ông kinh doanh, hợp đồng đã mãn từ ngày 22/8/2006, Công ty xây dựng và phát triển kinh tế quận S đã nhiều lần nhắc nhở nhưng ông BĐ_Khiêm không thanh lý hợp đồng mà vẫn còn kinh doanh tại đây và không thanh toán tiền thuê sạp.
11/2008/KDTM-ST: Tranh chấp hợp đồng mua bán máy điều hòa nhiệt độ Sơ thẩm Kinh doanh thương mại
- 1191
- 15
Tranh chấp hợp đồng mua bán máy điều hòa không khí
Theo nguyên đơn khởi kiện vào ngày 20/7/2005 với nội dung: Ngày 18/8/2004 giữa NĐ_Công ty TNHH T&D Electronics Việt Nam Hải Phòng (gọi tắt là NĐ_Công ty T&D ) đại diện bên A có ký hợp đồng số 01/T&D E/CAC/2004 - 08 mua bán máy điều hòa nhiệt độ nhãn hiệu T&D với đại diện bên B là BĐ_công ty TNHH Nhà hàng - Khách sạn Minh Quân (gọi tắt là BĐ_công ty Minh Quân). Số lượng 19 bộ, tổng trị giá hợp đồng là 1.118.250.000 đồng, chất lượng hàng mới 100%. Bên A sẽ tiến hành giao hàng cho bên B theo yêu cầu của bên B, thời gian giao là 03 tháng kể từ ngày ký hợp đồng. Thời gian thanh toán 03 đợt (đợt 1: 10% sau khi ký hợp đổng; đợt 2: 20% ngay sau khi hàng hóa được tập kết đầy đủ tại địa điểm bên B; đợt 3: 70% thanh toán trong vòng 45 ngày sau giao hàng).
57A/2014/DS-GĐT: Truy nhận cha cho con Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 719
- 8
Nguyên đơn trình bày: Ông là con của ông Đinh Phục Ba và bà LQ_Lê Thị Thường, vì chiến tranh nên khai sinh gốc không còn, theo Nghị định 83 ông đã khai sinh lại. Năm 2010 phát sinh tranh chấp giữa ông và các cô của ông nên Sở Tư pháp có công văn 541 hướng dẫn truy nhận cha cho con tại Toà. Bà BĐ_Sân, bà BĐ_Ninh, bà BĐ_Đương và bà BĐ_Linh không thừa nhận ông là con của ông Ba và bà Thuyền nên ông đề nghị Toà án giải quyết truy nhận ông Ba và bà Thuyền là cha mẹ của ông. Ông cung cấp giấy xác nhận của ông Đỗ Văn Tép, ông Trần Văn Ngọc, ông Đinh Hữu Út, bà Phan Thị Trinh và bà Trần Thị Điển, ngoài ra ông không còn chứng cứ khác đế cung cấp và ông không yêu cầu giám định gien. Nay ông yêu cầu giải quyết theo quy định của pháp luật.