525/2014/DS-GĐT: Đòi lại quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 581
- 6
Nguyên đơn trinh bày: Vào năm 1994, vợ chồng ông được ban khai hoang cấp cho một lô đất tọa lạc tại ấp Mỹ Lộc, xã TM, huyện TP, tỉnh TG có diện tích 14.662m2. Sau khi được cấp đất ông đã thuê người lên líp được một phần. Đến năm 1997 ông BĐ_Hoàng Hữu là anh cọc chèo hỏi mượn phần đất này để canh tác và xin đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để được hưởng các chính sách ưu đãi, hỗ trợ của nhà nước cho người đi khai hoang, ông cũng đồng ý và thỏa thuận khi nào các con ông BĐ_Hữu trưởng thành thì trả lại cho ông. Hai bên đã làm hợp đồng giả chuyển nhượng quyền sử dụng đất để sang tên cho ông BĐ_Hữu đứng tên phần đất này lúc đó có con gái lớn ông BĐ_Hữu là chị Hoàng Thị Hiền biết. Sau khi ông BĐ_Hữu gả con gái út, ngày 30/4/2009 vợ chồng ông đến yêu cầu ông BĐ_Hữu trả lại đất, ông BĐ_Hữu đồng ý và ký vào 04 giấy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và đưa ông giấy chứng minh nhân dân để làm thủ tục sang tên
524/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 453
- 3
Tranh chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất
Nguyên đơn cụ NĐ_Võ Thị Thịnh trình bày: Vào năm 1990 được sự đồng ý của Đảng ủy, UBND xã HP, huyện HV có tổ chức bán đấu giá các gian nhà của Hợp tác xã mua bán HP, trong quá trình đấu thầu cụ NĐ_Thịnh là người trúng thầu mua với giá 5.000.000đ và được sở hữu, ngôi nhà trên có 3 phòng, địa chỉ ngôi nhà tại thôn Đông Lâm, xã HP, huyện HV, thành phố ĐN. Sau đó cụ NĐ_Thịnh nhượng lại cho ông Huỳnh Mẫn 01 phòng giáp đường ĐT 604 với số tiền là 2.000.000đ và sau đó vài năm bà Thận có nhượng lại cho bà LQ_Phan Thị Hương 01 phòng ở phía trong cùng giáp với nhà ông Hồ Tấn Quang với giá 1.500.000đ, còn lại 01 phòng ở giữa và khuôn viên trước sau cụ NĐ_Thịnh để lại nhưng không có nhu cầu sử dụng. Việc chuyển nhượng cho bà LQ_Hương hai bên không viết giấy tờ gì vì cụ NĐ_Thịnh không biết chữ, hai bên chỉ thỏa thuận bằng miệng.
461/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất liên quan đến tài sản bị cưỡng chế Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 305
- 7
Tranh chấp quyền sử dụng đất liên quan đến tài sản bị cưỡng chế
Năm 1978 vợ chồng cụ NĐ_Nguyễn Thị Khang và cụ Nguyễn Thu cho ông Nguyễn Văn Thảo diện tích đất 5 sào có làm giấy cho trong đó xác định tứ cận phía đông giáp ông Lạc, phía tây giáp Nguyễn Thị Thanh, phía nam giáp người thượng, phía bắc giáp quốc lộ 14. Sau khi cho đất thì vào năm 1982 và 1983 ông BĐ_Thoa bán diện tích đất này cho ông Nguyễn Đăng Nhật và ông Nguyễn Văn Biếu. Khi ông BĐ_Thoa bán hết diện tích đất được cho thì cụ NĐ_Khang cho ông BĐ_Thoa diện tích đất kế bên với diện tích là 150m2, khi cho không lập văn bản. Đến năm 2005 cụ NĐ_Khang cho ông BĐ_Thoa căn nhà và diện tích đất được xác định tứ cận là phía đông giáp ông Nguyễn Văn Biếu, phía tây và phía nam giáp đất còn lại cùa gia đình, phía bắc giáp quốc lộ 14.
460/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 305
- 4
Theo đơn khởi kiện ngày 18/9/2006 và trong quá trình tố tụng, bà NĐ_Nguyễn Thị Rung ủy quyền cho anh Đàm Văn Hạnh trình bày: Năm 1987 bà NĐ_Rung (là mẹ anh) khai hoang được 26.545m2 đất tại thôn 5 xã EH, được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 1994 (gồm nhiều thửa) thuộc tờ bản đồ số 8, trong đó có thửa 204 có diện tích là 4.950m2 (là thửa đất có một phần đất đang tranh chấp). Đến tháng 5/1994, anh đưa vợ và các con vào thôn 5 xã EH sinh sống, vì tuổi đã cao nên mẹ anh (bà NĐ_Rung) đã ủy quyền cho anh quản lý và sử dụng toàn bộ phần đất nêu trên.
457/2014/DS-GĐTTranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 380
- 4
Nguồn gốc 6460m2 đất bao gồm thửa 229 diện tích 2.600m2 (đất màu), thửa 230 diện tích 3.500m2 (đất lúa) và thửa 234 diện tích 900m2 (thổ cư và đất vườn) là của cha mẹ ông để lại từ năm 1975 và ông được cấp GCNQSDĐ năm 1996. Đất của ông BĐ_Bình sử dụng giáp ranh với đất của ông và có ranh đất rõ ràng. Năm 1990, ông BĐ_Bình làm nhà cho con là LQ_Huỳnh Phi Phượng không lấn đất của ông, đến năm 1998, xáng múc kênh đổ đất lên đất ông BĐ_Bình lấp mất ranh nên không xác định được ranh. Sau đó, ông BĐ_Bình ban đất lấn sang đất của ông là 150m2. Ranh đất theo GCNQSDĐ là đường thẳng, nay là cong. Khi anh LQ_Phượng sửa nhà có lấn sang đất của ông nên ông làm đơn tranh chấp gửi chính quyền ấp và xã. UBND xã NT A hòa giải thì ông và ông BĐ_Bình thống nhất căn cứ GCNQSDĐ để xác định ranh đất nhưng khi cán bộ xã xuống đo đạc cắm mốc thì ông BĐ_Bình không đồng ý. Vì vậy, ông NĐ_Xuân khởi kiện yêu cầu ông BĐ_Bình trả lại 150m2 đất lấn chiếm.