cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

407/2008/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 941
  • 15

Tranh chấp hợp đồng vay tài sản và hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

30-12-2008

Tại đơn khởi kiện ngày 26-10-2005 nguyên đơn bà NĐ_Nguyễn Thị Ca khởi kiện yêu cầu bà BĐ_Võ Thị Vinh phải thanh toán các khoản nợ như sau: - Các khoản nợ có biên nhận là: 1.226.000.000 đồng - Nợ không có biên nhận là: 650.000.000 đồng - Nợ bán dùm đất tại số 286/81 CMTT, diện tích 1.475m2 giá 500.000 đồng/m2 thành tiền là: 737.500.000 đồng; Tổng cộng: 2.613.500.000 đồng Ngoài ra, bà còn mua của bà BĐ_Vinh một số nền đất tại hẻm 127 MT nối dài, phường AH, quận NK, yêu cầu bà BĐ_Vinh có trách nhiệm tiếp tục giao đất.


405/2008/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1869
  • 42

Tranh chấp hợp đồng thuê quyền sử dụng đất

30-12-2008

Theo đơn khởi kiện ngày 18-12-2006 và trong quả trình tố tụng bà NĐ_Nguyễn Thị Tâm trình bày: bà và các con là LQ_Nguyễn Thanh Lành và LQ_Nguyễn Thúy Hên có làm hợp đồng cho thuê mặt bằng với một số hộ kinh doanh ở khu vực chợ số 10, khu vực 2, phường BL, quận CR, Ngày 1-8-2005 bà đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Nay bà có nhu cầu sử đụng đất vào mục đích khác, cho nên bà yêu cầu những hộ này di dời đi nơi khác để giao trả quyền sử dụng đất cho bà cụ thể là: BĐ_Nguyễn Thị Thương thuê 4x 5 = 20m2, bà BĐ_Thương còn thiếu 5 tháng tiền thuê đất bằng đồng.


41/2008/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 669
  • 15

Tranh chấp tài sản sau ly hôn

23-12-2008

Bà NĐ_Ngô Thị Bến và ông BĐ_Trần Quốc Tín đăng ký kết hôn từ năm 1993, có một con chung. Năm 2001 phát sinh mâu thuẫn, ông BĐ_Tín xin ly hôn. Tại bản án dân sự sơ thẩm số 257/DSST ngày 10-6-2003, Tòa án nhân dân quận GV, thành phố HCM đã xử cho ông BĐ_Tín được ly hôn bà NĐ_Bến, bà NĐ_Bến được nuôi dưỡng con chung là Trần Quốc Thắng (sinh năm 1995). Về tài sản: công nhận sự thỏa thuận của hai bên, bà NĐ_Bến được chia các đồ dùng trong gia đình, ông BĐ_Tín mua cho bà NĐ_Bến một căn nhà cấp 4 tại phường X, quận GV, diện tích 3,5m x 6m, có gác gỗ để đủ diện tích sử dụng là 40m2, thời hạn giao nhà là 06 tháng. Ông BĐ_Tín được sử dụng và đăng ký quyền sở hữu căn nhà 64/2A1 LVT, phường X, quận GV, và nhận trả toàn bộ số nợ của ông Mỹ.


38/2008/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 374
  • 11

Tranh chấp quyền sở hữu nhà

28-11-2008

Bà NĐ_Chánh và ông Phạm Văn Thiết có 05 người con gồm: Phạm Văn Sa, Phạm Văn Sâm, LQ_Phạm Thị Nhi, LQ_Phạm Thị Ninh, Phạm Văn Thân (hy sinh năm 1985). Năm 1962 do chính sách dồn dân lập ấp chiến lược, gia đình bà NĐ_Chánh và ông Thiết được cấp một nền gò nhà tại số 16/2 ấp 1, xã Phú Mỹ, huyện Nhà Bè (nay là số nhà 10/1A, khu phố 2, HTP, phường PN, quận X, thành phố HCM) có khuôn viên ngang 24,5m, dài khoảng 30m. Bà NĐ_Chánh và ông Thiết đã tạo dựng một căn nhà mái tole, cột gỗ, nền đất có diện tích 32m2 trên nền gò 312m2, xung quanh còn lại là ao vũng. Năm 1963 ông Thiết chết, bà NĐ_Chánh cùng các con tiếp tục sử dụng nhà đất trên. Năm 1977 bà NĐ_Chánh có đăng ký kê khai nhà đất, năm 1984 kê khai theo chỉ thị 299/TTg và đến năm 1999 tiếp tục đăng ký theo chỉ thị chung.


38/2008/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 468
  • 9

Tranh chấp quyền sở hữu tài sản

28-11-2008

Bà NĐ_Chánh và ông Phạm Văn Thiết có 05 người con gồm: Phạm Văn Sa, Phạm Văn Sâm, LQ_Phạm Thị Nhi, LQ_Phạm Thị Ninh, Phạm Văn Thân (hy sinh năm 1985). Năm 1962 do chính sách dồn dân lập ấp chiến lược, gia đình bà NĐ_Chánh và ông Thiết được cấp một nền gò nhà tại số 16/2 ấp 1, xã Phú Mỹ, huyện Nhà Bè (nay là số nhà 10/1A, khu phố 2, HTP, phường PN, quận X, thành phố HCM) có khuôn viên ngang 24,5m, dài khoảng 30m. Bà NĐ_Chánh và ông Thiết đã tạo dựng một căn nhà mái tole, cột gỗ, nền đất có diện tích 32m2 trên nền gò 312m2, xung quanh còn lại là ao vũng. Năm 1963 ông Thiết chết, bà NĐ_Chánh cùng các con tiếp tục sử dụng nhà đất trên. Năm 1977 bà NĐ_Chánh có đăng ký kê khai nhà đất, năm 1984 kê khai theo chỉ thị 299/TTg và đến năm 1999 tiếp tục đăng ký theo chỉ thị chung.