43/2012/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 436
- 13
Sinh thời cụ Thơ và cụ Cúc tạo lập được khối tài sản bao gồm: căn nhà trên 4.000m2 đất tại số 60 đường LVN, khóm Bình Long 3, phường Mỹ Khánh, thành phố LX, tỉnh AG cùng các vật dụng trong gia đình bao gồm: 01 tủ thờ, 02 đi văng, bàn ghế... Hiện tại, ông BĐ_Kỳ, ông BĐ_Thứ và bà cùng quản lý sử dụng căn nhà. Bà BĐ_Bông Quyên sử dụng nhà bếp và chiếm dụng đất của cha mẹ để xây dựng 01 căn nhà và làm hầm nuôi cá. Bà LQ_Như Quyên cũng cất 01 căn nhà trên đất của cha mẹ. Sau khi bà LQ_Như Quyên, chết (năm 2003) thì chị Trần Lệ Nga (con của bà LQ_Như Quyên) sử dụng nhà này.
402/2012/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 668
- 12
Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
Ngày 25/8/2008 bà NĐ_Nguyễn Thị Phi có đơn khởi kiện yêu cầu chia thừa kế tài sản của cha mẹ. Tại Tòa án bà NĐ_Phi trình bày: Khi cha mẹ bà còn sống, đã họp gia đình và quyết định chia cho bà LQ_Miên 411 m2 đất nguyên thổ, trên có nhà, bếp, sân vườn, vì bà LQ_Miên sống cùng cha mẹ từ nhỏ, khi lập gia đình vẫn sống cùng cha mẹ, có công chăm sóc, phụng dưỡng lúc cha mẹ tuổi già, sau khi cha mẹ qua đời, bà LQ_Miên sẽ thay mặt các chị em hương khói cho tổ tiên và cha mẹ. Phần đất còn lại có diện tích 269 m2, cụ Chúc, cụ Hát để lại cho bà BĐ_Phú, bà BĐ_Phụng và bà NĐ_Phi. Cụ Chúc chết năm 1990, không để lại di chúc. Năm 2003, cụ Hát chết. Sau khi cụ Hát chết, bà BĐ_Phú và bà BĐ_Phụng xuất trình bản di chúc, nói là của cụ Hát lập ngày 25/01/1996, được ủy ban nhân dân xã KN chứng thực, có nội dung cụ Hát không cho bà được hưởng thừa kế quyền sử dụng đất. Theo bà thì bản di chúc trên không phải là của cụ Hát, mà là do bà BĐ_Phú, bà BĐ_Phụng đã giả mạo, nhằm truất quyền thừa kế của bà, chữ ký và chữ viết tên bà trong bản di chúc là không phải chữ ký, chữ viết của bà. Bà đề nghị Tòa án hủy bản di chúc, chia thừa kế theo pháp luật đối với diện tích 269 m2 đất, nay thuộc thửa số 34, tờ bản đồ số 24 vẫn đứng tên chủ sử dụng là cụ Nguyễn Mậu Chúc; riêng diện tích đất cha mẹ bà đã cho bà LQ_Miên, bà LQ_Miên đã kê khai, đăng ký và đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất từ năm 2006 thì bà không tranh chấp.
401/2012/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 561
- 22
Đòi lại quyền sử dụng đất và tiền cho vay
Tháng 02/2006 ông BĐ_Thiên hỏi mượn bà số tiền 12.000.000 đồng để trả nợ Ngân hàng, bà đồng ý và cùng ông BĐ_Thiên đến Ngân hàng trả nợ để lấy sổ đỏ, sau khi lấy sổ đỏ về ông BĐ_Thiên đã giao sổ đỏ cho bà giữ; ông BĐ_Thiên có ký giấy tay cho đất (giấy tay không ghi ngày tháng năm và ký hợp đồng theo mẫu) đế cho bà tách bộ quyền sử dụng đất trên. Sau khi ông BĐ_Thiên đưa sổ đỏ cho bà, bà đã nhờ chị LQ_Nguyễn Thị Hoa đi làm thủ tục sang tên quyền sử dụng đất giúp. Ngày 21/8/2006 bà được cấp quyền sử dụng đất diện tích 698m2, nhưng ông BĐ_Thiên ngăn cản không cho bà sử dụng đất dẫn đến tranh chấp. Nay bà ỵêụ cầu ông BĐ_Thiên phải giao cho bà 698m2 để bà sử dụng và đề nghị ông BĐ_Thiên phải trả cho bà 12.000.000 đồng vay và tính lãi theo quy định pháp luật, bà không yêu cầu ông BĐ_Thiên phải trả cho bà tiền công san lấp mặt bằng.
329/2012/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 371
- 7
Theo đơn khởi kiện ngày 24/7/2008 và quá trình tố tụng, nguyên đơn ông NĐ_Ngô Thanh Hào trình bày: ông Ngô Văn Dương và bà Nguyễn Thị Tua có 9 người con: Ngô Văn Đi (chết) có vợ là LQ_Huỳnh Thị Én và 02 con là LQ_Ngô Thị Phú và LQ_Ngô Văn Thứ; bà LQ_Ngô Thị Chi; ông NĐ_Ngô Thanh Hào; ông LQ_Ngô Văn Đa; BĐ_Ngô Văn Riêu; bà LQ_Ngô Thị Ra; bà LQ_Ngô Thị Ga; bà LQ_Ngô Thị Liên; bà LQ_Ngô Thị Đan. Năm 2003, ông Dương chết. Năm 2004, bà Tua chết. Di sản ông Dương và bà Tua để lại gồm: một phần đất có diện tích 8.133,6m2 toạ lạc ấp 5, xã CPH, huyện BC, tỉnh BD, trên đất có 01 căn nhà cấp 4 và một số cây ăn trái. Trên phần đất này, ông Dương và bà Tua có cho bà LQ_Ngô Thị Ga một phần ngang khoảng 10m, dài hết đất khoảng 50m (phần đất này bà LQ_Ga đã cắm cột mốc). Một phần đất có diện tích khoảng 14.000 m2 toạ lạc tại ấp Long Hưng, huyện BC, tỉnh BD. Ông Dương và bà Tua chết không để lại di chúc.
320/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 378
- 24
Năm 1988, ông Thụ chết không để lại di chúc. Năm 1992, sau khi cải táng cho ông Thụ xong thì họ tộc đã yêu cầu bà về sống tại nhà đất của ông Thụ để nhang khói cho ông Thụ nên mẹ con bà đã quay lại thôn Khách và ở từ đó đến nay. Sau khi ông Thụ chết, bà BĐ_Ánh đã bán nhà đất ở HN và về sống tại nhà đất ở thôn Khách nhưng đến năm 1992 thì bỏ đi đâu không rõ. Khi lấy ông Thụ bà không nghe nói gì về việc ông Thụ nhận anh Lộc làm con nuôi nhưng năm 1981 anh Lộc dẫn vợ con về sống tại nhà đất của ông Thụ và nói là con nuôi của ông Thụ bà BĐ_Ánh. Khoảng 2 năm sau thi gia đình anh Lộc đi xây dựng kinh tế mới, nhà và đất lại do mẹ con bà quản lý.