86/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 2304
- 118
Yêu cầu hủy hợp đồng ủy quyền và hợp đồng đặt cọc
Nguyên đơn yêu cầu: Hủy Hợp đồng đặt cọc giữa bà BĐ_Tiên và bà LQ_Thùy ngày 4/7/2007 về việc mua bán nhà số 9, tổ 37, HC; hủy Hợp đồng đặt cọc ngày 16/9/2008 giữa bà BĐ_Tiên và bà LQ_Thùy về việc chuyển nhượng lô đất Giấy chứng nhận số H26114 tại số 9 HC; hủy Hợp đồng ủy quyền giữa ông NĐ_Thu và bà BĐ_Tiên ngày 29/11/2006. Yêu cầu tiếp tục duy trì Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 63 ngày 27/02/2009 của Tòa án nhân dân thành phố NT về cấm chuyển dịch lô đất Giấy chứng nhận số H26114, diện tích 436m2 đứng tên ông NĐ_Thu.
85/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 437
- 9
Từ năm 2002 đến năm 2005 bà NĐ_Vũ và ông NĐ_Long nhiều lần gửi tiền về nhờ bà LQ_Dương Chiêu Ngọc và anh BĐ_Lê Nghĩa Tiến (là con của bà LQ_Ngọc) xây dựng một số công trình để thờ cúng. Tổng số tiền đã gửi là 68.835 đô la Úc (quy đổi thành 984.923.000 VNĐ) và cho anh BĐ_Tiến vay 150 triệu đồng tiền Việt Nam. Anh BĐ_Tiến và bà LQ_Ngọc đã xây dựng xong công trình, công trình được định giá là 508.885.000 đồng. Nay nguyên đơn yêu cầu anh BĐ_Tiến trả lại số tiền đã vay và số tiền xây dựng khu nhà thờ còn thừa
82/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1183
- 19
Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà, đất
Ngày 24/12/1973, vợ chồng cụ LQ_Huệ tự ý bán một căn nhà lợp tole, vách ván, nền xi măng (nay là số 128/1 NVQ, khu phố 2, phường TTH, quận X) cho cụ Trương Chiến với giá 80.000 đồng (riêng phần đất thì không bán mà cụ Trương Chiến vẫn phải trả tiền thuê hàng năm là 500 đồng). Sau khi phát hiện cụ LQ_Huệ tự ý bán phần đất chung là phần nhà xây trên đất thừa kế thì cụ Nha tranh chấp từ năm 1990 và khởi kiện tại Tòa án nhân dân huyện HM, ngày 28/4/2006 cụ Nha chết. Nay ông đại diện cho các thừa kế của cụ Nha yêu cầu hủy việc mua bán nhà giữa cụ Mình, cụ LQ_Huệ với cụ Trương Chiến. Ông đồng ý hoàn trả tiền mua nhà và chi phí sửa chữa, đồng thời chấp nhận bồi thường thiệt hại, yêu cầu bà BĐ_Kinh (con của cụ Trương Chiến) trả nhà trong thời hạn 02 tháng, khi di dời sẽ hỗ trợ 50 triệu đồng. Trường hợp bà BĐ_Kinh muốn tiếp tục sử dụng nhà thì phải hoàn trả giá trị đất và thanh toán giá trị đất trong 6 tháng.
82/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 958
- 39
Yêu cầu xác lập quyền sở hữu nhà và đất
Ngày 24/12/1973, vợ chồng cụ LQ_Huệ tự ý bán một căn nhà lợp tole, vách ván, nền xi măng (nay là số 128/1 NVQ, khu phố 2, phường TTH, quận X) cho cụ Trương Chiến với giá 80.000 đồng (riêng phần đất thì không bán mà cụ Trương Chiến vẫn phải trả tiền thuê hàng năm là 500 đồng). Sau khi phát hiện cụ LQ_Huệ tự ý bán phần đất chung là phần nhà xây trên đất thừa kế thì cụ Nha tranh chấp từ năm 1990 và khởi kiện tại Tòa án nhân dân huyện HM, ngày 28/4/2006 cụ Nha chết. Nay ông đại diện cho các thừa kế của cụ Nha yêu cầu hủy việc mua bán nhà giữa cụ Mình, cụ LQ_Huệ với cụ Trương Chiến. Ông đồng ý hoàn trả tiền mua nhà và chi phí sửa chữa, đồng thời chấp nhận bồi thường thiệt hại, yêu cầu bà BĐ_Kinh (con của cụ Trương Chiến) trả nhà trong thời hạn 02 tháng, khi di dời sẽ hỗ trợ 50 triệu đồng. Trường hợp bà BĐ_Kinh muốn tiếp tục sử dụng nhà thì phải hoàn trả giá trị đất và thanh toán giá trị đất trong 6 tháng.
81/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 237
- 10
Sau năm 1975, ông Ngụy Tình vượt biên. Căn nhà 44 BĐ do Nhà nước quản lý. Ông làm đơn xin lại căn nhà. Ngày 24/5/1983, Ủy ban nhân dân thị xã CĐ ban hành Quyết định số 97/QĐ-UB giao lại căn nhà 44 BĐ cho ông làm chủ quyền và ông đã đăng ký hộ khẩu thường trú tại địa chỉ này. Tháng 4/1985, cụ Vinh ốm nặng, ông phải khóa cửa bỏ trống nhà 44 BĐ và chuyển về ở tại nhà số 93 NĐC để chăm sóc cụ Vinh thì vợ chồng ông BĐ_Phạm Hữu Cần, bà LQ_Lưu Ngọc Di tự ý phá khóa vào chiếm căn nhà 44 BĐ để ở. Nay ông yêu cầu Tòa án xác định quyền sở hữu căn nhà 44 BĐ của ông, yêu cầu vợ chồng ông BĐ_Cần, bà LQ_Di trả lại nhà cho ông.