104/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 830
- 38
Ngôi nhà số 62 NTN, quận HBT, thành phố HN (sau đây gọi là nhà số 62 NTN) thuộc thửa số 841, tờ bản đồ số 10, diện tích 230m2, mang bằng khoán điền thổ số 120p - Khu Đồn thủy, thuộc quyền sở hữu của cụ Đỗ Huy Đương và cụ Đỗ Thị Vương. Năm 1979, cụ Đương lập di chúc chia ngôi nhà trên cho 5 người con. Ngày 26/12/1959, cha mẹ bà có hợp đồng cho ông BĐ_Nguyễn Quang Mỹ thuê một nửa gian phòng tầng 1 diện tích là 13,5m2 (trước là Gara ô tô), thời hạn thuê là 01 năm, giá thuê là 08đ/tháng, hết hạn hợp đồng hai bên không ký hợp đồng mới, ông BĐ_Mỹ tiếp tục ở. Tháng 12/1975, hai cụ lại cho ông BĐ_Mỹ ở nhờ nốt nửa gian còn lại, đồng thời ông BĐ_Mỹ viết Giấy cam đoan ngày 18/12/1975, thể hiện diện tích cho thuê và cho ở nhờ là 27m2. Từ năm 1981, 1982 đến nay, phía nguyên đơn đã nhiều lần yêu cầu ông BĐ_Mỹ cùng gia đình trả lại toàn bộ diện tích nhà cho thuê và cho ở nhờ nhưng gia đình ông BĐ_Mỹ không trả
105/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 491
- 14
Ngày 01/6/2007, BĐ_Công ty TNHH MTV Hong King (gọi tắt là BĐ_Công ty Hong King) lập hợp đồng ủy quyền cho Công ty TNHH Tập đoàn cổ phần Vĩ Đại khai thác tận thu quặng titan trên diện tích 447 ha thuộc Khu công nghiệp NH (khu B), Khu kinh tế NH. Căn cứ hợp đồng ủy quyền trên, NĐ_Công ty Vĩ Đại đã chuyển toàn bộ thiết bị, máy móc về địa bàn để khai thác titan. Ngày 07/5/2009, Uỷ ban nhân dân tỉnh BĐ cấp giấy phép khai thác khoáng sản cho NĐ_Công ty Vĩ Đại, thời hạn khai thác đến hết ngày 31/12/2009. Ngày 08/12/2010, Ủy ban nhân dân tỉnh BĐ ra Quyết định số 551/QĐ-UBND về việc chấm dứt khai thác tận thu titan tại khu công nghiệp A và khu công nghiệp B thuộc Khu kinh tế NH. NĐ_Công ty Vĩ Đại đã nhiều lần yêu cầu BĐ_Công ty Hong King Việt Nam để đại diện NĐ_Công ty Vĩ Đại đưa toàn bộ thiết bị, máy móc và titan tinh, titan thô ra khỏi địa bàn của BĐ_Công ty Hong King, nhưng BĐ_Công ty Hong King cản trở không cho đưa ra khỏi địa bàn thuộc quyền quản lý của BĐ_Công ty Hong King. Do vậy, NĐ_Công ty Vĩ Đại yêu cầu Tòa án buộc BĐ_Công ty Hong King phải chấm dứt hành vi cản trở không cho NĐ_Công ty Vĩ Đại chuyển titan tinh, titan thô ra khỏi Khu công nghiệp NH
121/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 386
- 14
Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà
Ngày 20/12/2001 bà ký hợp đồng mua của BĐ_Công ty Xây dựng ABC HN (nay là BĐ_Công ty cổ phần Đầu tư Xây dựng ABC HN) căn hộ số 11, lô số 2 (nhà ở xây thô 3,5 tầng, diện tích đất xây dựng 82,2m2 trên diện tích đất là 82,2m2) với giá 360.000.000 đồng. Ngay sau khi ký hơp đồng, bà đã nộp cho BĐ_Công ty 221.940.000 đồng (2/3 giá trị hợp đồng do ông Phan Anh Tân hàng xóm của bà nộp hộ), số tiền còn lại bà sẽ thanh toán trước khi nhận nhà và các giấy tờ liến quan để làm thủ tục sở hữu. Sau khi ký hợp đồng và nhận tiền, BĐ_Công ty không thi công xây nhà theo thỏa thuận và đưa ra nhiều lý do. Cuối năm 2004, BĐ_Công ty xây được phần mỏng nhà. Năm 2005, BĐ_Công ty yêu cầu bà ký lại hợp đồng mua bán nhà theo giá mới là 1.512.960.988 đồng nhưng bà không đồng ý. Bà yêu cầu BĐ_Công ty cổ phần Đầu tư Xây dựng ABC HN phải thực hiện hợp đồng đã ký năm 2001
102/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 394
- 5
Vào ngày 07/02/2001, ông có gửi đại lý của bà BĐ_Nguyễn Thị Thy 3.225kg cà phê nhân xô, bà BĐ_Thy có ghi giấy nhận cà phê và đưa cho ông giữ để làm tin. Hai bên thoả thuận khi nào giá cà phê lên thì chốt giá lấy tiền. Theo thoả thuận trên, tháng 4/2007 giá cà phê lên 9.700đ/kg thì ông điện thoại cho bà BĐ_Thy chốt giá là 9.700đ/kg, quy thành tiền là 31.285.000đ, nhưng bà BĐ_Thy khất lần mãi không trả. Vì vậy, ông khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc vợ chồng bà BĐ_Thy, ông LQ_Nhơn phải trả cho ông số cà phê đã gửi hay thanh toán tiền cà phê theo giá hiện hành hoặc trả tiền cà phê như tại thời điểm chốt giá và tiền lãi phát sinh
100/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1424
- 17
Sau khi cụ Thiềm chết, ông NĐ_Hòa, bà BĐ_Tý và bà BĐ_Hên đã tự phân chia căn nhà thành 3 phần để ở. Ngày 18/10/1992, bà BĐ_Tý bán phần nhà đang sử dụng cho bà LQ_Nguyễn Thị Kiều và ngày 31/10/1993 bà BĐ_Hên bán tiếp phần nhà bà đang ở cho bà LQ_Hà Thùy Loan. Năm 1993, ông NĐ_Hòa khởi kiện yêu cầu chia thừa kế nhà đất của cha mẹ nêu trên theo pháp luật. Việc giải quyết vụ án kéo dài từ năm 1993 đến 1996 và bị tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm năm 1997. Năm 2007, vụ án được thụ lý lại.