cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

1502/2008/KDTM-PT: Tranh chấp hợp đồng thuê tài sản Phúc thẩm Kinh doanh thương mại

  • 789
  • 9

Tranh chấp hợp đồng thuê tài sản

17-12-2008
TAND cấp tỉnh

Theo đơn khởi kiện của nguyên đơn NĐ_Tổng công ty Lý Sơn ngày 04/6/2008 và trình bày của ông Nguyễn Trọng Minh đại diện NĐ_Tổng công ty Lý Sơn cùng đại diện cho LQ_Công ty cổ phần đầu tư xây đựng phát triển nhà Hoa My là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan thì theo hợp đồng thuê sạp chợ BP lập ngày 31/08/2001 (Hợp đồng số 305/HĐTS-/2001) thì ông BĐ_Phạm Quốc Đăng Khiêm có thuê của Công ty xây dựng và phát triển kinh tế quận S (nay là LQ_Công ty cổ phần đầu tư Biên Hạ) sạp số 6 mã số C1 chợ BP, phường 10 quận S diện tích 3m2 để kinh doanh mùng, mền chiếu, gối, thời hạn thuê là 5 năm tính từ ngày giao sạp chợ (22/8/2001), trị giá hợp đồng là 27.775.000 đồng/5 năm. Ông BĐ_Khiêm có vi phạm về thời hạn thanh toán tiền, nhưng đã thanh toán theo phương thức trả góp là 31.571.100 đồng xong. Sau khi ký kết hợp đồng nêu trên, ông BĐ_Khiêm để sạp cho bà LQ_Nguyễn Thị Ngân là mẹ ruột ông kinh doanh, hợp đồng đã mãn từ ngày 22/8/2006, Công ty xây dựng và phát triển kinh tế quận S đã nhiều lần nhắc nhở nhưng ông BĐ_Khiêm không thanh lý hợp đồng mà vẫn còn kinh doanh tại đây và không thanh toán tiền thuê sạp.


11/2008/KDTM-ST: Tranh chấp hợp đồng mua bán máy điều hòa nhiệt độ Sơ thẩm Kinh doanh thương mại

  • 1198
  • 15

Tranh chấp hợp đồng mua bán máy điều hòa không khí

29-09-2008
TAND cấp tỉnh

Theo nguyên đơn khởi kiện vào ngày 20/7/2005 với nội dung: Ngày 18/8/2004 giữa NĐ_Công ty TNHH T&D Electronics Việt Nam Hải Phòng (gọi tắt là NĐ_Công ty T&D ) đại diện bên A có ký hợp đồng số 01/T&D E/CAC/2004 - 08 mua bán máy điều hòa nhiệt độ nhãn hiệu T&D với đại diện bên B là BĐ_công ty TNHH Nhà hàng - Khách sạn Minh Quân (gọi tắt là BĐ_công ty Minh Quân). Số lượng 19 bộ, tổng trị giá hợp đồng là 1.118.250.000 đồng, chất lượng hàng mới 100%. Bên A sẽ tiến hành giao hàng cho bên B theo yêu cầu của bên B, thời gian giao là 03 tháng kể từ ngày ký hợp đồng. Thời gian thanh toán 03 đợt (đợt 1: 10% sau khi ký hợp đổng; đợt 2: 20% ngay sau khi hàng hóa được tập kết đầy đủ tại địa điểm bên B; đợt 3: 70% thanh toán trong vòng 45 ngày sau giao hàng).


60/2014/DS-GĐT: Tranh chấp tài sản thuộc sở hữu chung Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 712
  • 6

Tranh chấp tài sản thuộc sở hữu chung

25-02-2014

Theo đơn khởi kiện đề ngày 16/8/2011 và quá trình tố tụng nguyên đơn bà NĐ_Nguyễn Thị Chi trình bày: Hai cụ Nguyễn Văn Bền và LQ_Trần Thị Linh có 05 người con (bà LQ_Nguyễn Thị Chân, LQ_Nguyễn Thị Mỹ Dân, LQ_Nguyễn Văn Tân, BĐ_Nguyễn Văn Minh, NĐ_Nguyễn Thị Chi). Trước khi hy sinh (năm 1973), cụ Bền có cho bà NĐ_Chi 01 lượng vàng. Năm 1977, bà NĐ_Chi góp 01 lượng vàng cho mẹ là cụ LQ_Linh nhận chuyển nhượng 01 lô đất, diện tích hơn 2.000m2 trên có một căn nhà cấp 4 diện tích 64m2 tại 49/31 PHT, phường 10, thành phố ĐL, tỉnh LĐ của cụ Đường với giá là 2.800đ (giá vàng khi đó 1.500đ/ lượng). Việc chuyển nhượng này do ông LQ_Tân (anh cả) đứng ra giao dịch thay cho mẹ. Sau khi chuyển nhượng, cả gia đình cùng sinh sống trên diện tích đất này, đến năm 1991 bà NĐ_Chi mới chuyển ra ngoài sinh sống vì mâu thuẫn với ông BĐ_Minh.


59/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 326
  • 7

Tranh chấp quyền sử dụng đất

25-02-2014

Năm 1930 cha mẹ các cụ là cố Nguyễn Lượng (chết 1945) và cố Lê Thị Bảy (chết năm 1948) khai hoang đất và dựng nhà ở (hiện nay là số 25 PCT, thành phố KT, tỉnh KT), năm 1937 được chính quyền chế độ cũ cấp quyền sở hữu diện tích 1415m2 đất. Hai cố có 5 người con là cụ NĐ_Nguyễn Thị Lân (tức Long), cụ Nguyễn Thị Báu, cụ NĐ_Nguyễn Thị Thủy, cụ LQ_Nguyễn Văn Man và cụ Nguyễn Lành, cố Lượng chết năm 1945, cố Bẩy chết năm 1948 đều không để lại di chúc.


57A/2014/DS-GĐT: Truy nhận cha cho con Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 721
  • 8

Truy nhận cha cho con

24-02-2014

Nguyên đơn trình bày: Ông là con của ông Đinh Phục Ba và bà LQ_Lê Thị Thường, vì chiến tranh nên khai sinh gốc không còn, theo Nghị định 83 ông đã khai sinh lại. Năm 2010 phát sinh tranh chấp giữa ông và các cô của ông nên Sở Tư pháp có công văn 541 hướng dẫn truy nhận cha cho con tại Toà. Bà BĐ_Sân, bà BĐ_Ninh, bà BĐ_Đương và bà BĐ_Linh không thừa nhận ông là con của ông Ba và bà Thuyền nên ông đề nghị Toà án giải quyết truy nhận ông Ba và bà Thuyền là cha mẹ của ông. Ông cung cấp giấy xác nhận của ông Đỗ Văn Tép, ông Trần Văn Ngọc, ông Đinh Hữu Út, bà Phan Thị Trinh và bà Trần Thị Điển, ngoài ra ông không còn chứng cứ khác đế cung cấp và ông không yêu cầu giám định gien. Nay ông yêu cầu giải quyết theo quy định của pháp luật.