142/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Tái thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 928
- 19
Ông NĐ_Bảo và ông BĐ_Tâm đều là cháu nội của cụ Đỗ Văn Tấn. Bố ông BĐ_Tâm là ông Đỗ Văn Huấn, bố ông NĐ_Bảo là ông Đỗ Văn Tích. Khi cụ Tấn còn sống đã chia đất cho các con là ông Huấn, ông Tích, ông Thảnh từ khi chưa cải cách ruộng đất, còn phần đất gieo mạ và ao sử dụng chung. Khi cải cách ruộng đất cụ Tấn bị quy là địa chủ và diện tích dược mạ bị tịch thu, giao cho một số hộ canh tác. Nhưng do canh tác không có hiệu quả nên một số hộ dân đã không canh tác nữa và trong thời gian (năm 1965) này Hợp tác xã nông nghiệp Xuân Thọ đã giao cho gia đình bà LQ_Tít sử dụng tính bằng 0.9 sào đất phần trăm. Năm 1970 xã TN nắn lại đường trong xóm, có lấy đất lắp đường, sau đó gia đình cải tạo lại để làm ao thả cá và trồng cây ăn quả.
129/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 227
- 1
NHẬN THẤY: Theo đơn khởi kiện ngày 03/6/2010 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn- ông NĐ_Nguyễn Minh Chung trình bày: cha mẹ ông là cụ Nguyễn Nhạc và cụ Nguyễn Thị Diệc (đều đã chết) để lại tài sản là căn nhà trên diện tích đất 1,490m2 thuộc thửa 106, tờ bản đồ số 10, tại thôn Tân Mỹ, xã QP, huyện QT, tỉnh QB. Cha mẹ ông chết không để lại di chúc, các anh chị em ông thống nhất cho ông quản lý, sử dụng nhà đất nêu trên. Năm 2009, do Nhà nước mở đường đi qua một phần đất của ông, nên hàng rào cũ giáp với con đường mới mở không còn, khi ông tiến hành xây dựng lại hàng rào thì ông BĐ_Nguyễn Quang Đông và bà BĐ_Nguyễn Thị Kiên đến ngăn cản và cho rằng trong thửa đất ông đang quản lý, sử dụng có một phần đất của cha mẹ ông BĐ_Đông, bà BĐ_Kiên; đồng thời ông BĐ_Đông, bà BĐ_Kiên tự ý xây móng hàng rào và xây một tấm bia trên thửa đất ông đang quản lý, sử dụng. Nay ông yêu cầu ông BĐ_Đông, bà BĐ_Kiên phải tháo dỡ hàng rào và tấm bia ra khỏi thửa đất của gia đình ông.
115/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 956
- 19
Theo đơn khởi kiện ngày 20/1/2010 và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn là ông NĐ_Mạnh, bà NĐ_Miên trình bày: cha mẹ ông NĐ_Mạnh (là cụ Nguyễn Đính và cụ Nguyễn Thị Chấn) chết có để lại cho vợ chồng ông bà một thửa đất thổ cư khoảng 3 sào tương đương 1.500m2 (có tứ cận). Ở phía nam của thửa đất ông bà có xây dựng một ngôi nhà cách tường nhà ông Bảy 1,8m dùng để buôn bán nhỏ và sửa xe đạp. Ngày 20/4/1989 vợ chồng ông bà bán ngôi nhà này gắn liền với 80m2 đất cho bà Đào Thị Giàu (chị ruột bà NĐ_Miên) với giá 160.000 đồng. Hai bên xác lập giấy mua bán viết tay, không có chứng thực. Trong giấy mua bán có thỏa thuận, sau này bà Giàu không có nhu cầu sử dụng nữa thì sẽ nhượng lại cho ông bà.
111/2014/DS-GĐT: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 397
- 6
Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Tại đơn khởi kiện ngày 30/9/2008 nguyên đơn là ông NĐ_Nguyễn Văn Rân trình bày: Ông có diện tích đất 750m2 tọa lạc tại ấp Xóm Đồng, xã TPT, huyện CC do con trai ông là anh BĐ_Nguyễn Văn Thông quản lý, sử dụng từ năm 1994. Năm 2001, ông viết giấy tay chuyển nhượng cho anh BĐ_Thông phần đất 324m2 (trong số 750m2 nêu trên) với giá 62 triệu đồng, phần đất còn lại 426m2 ông chỉ cho anh BĐ_Thông mượn. Năm 2007, anh BĐ_Thông làm hồ sơ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, khi đó ông có giao kèo chỉ chuyển nhượng phần diện tích 324m2 đất mà ông đã ký giấy tay bán cho anh BĐ_Thông năm 2001 chứ không chuyển nhượng toàn bộ phần diện tích đất mà anh BĐ_Thông đang sử dụng 750m2.
110/2014/DS-GĐT: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 402
- 4
Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Ngày 08/12/2009, bà NĐ_Phạm Thị Bích Nga có cho bà BĐ_Nguyễn Thị Sang vay số tiền 2.500.000.000đ (hai tỷ năm trăm triệu đồng), hợp đồng có chứng thực của phòng công chứng, thời hạn vay là 02 tháng, lãi suất vay là 3%. Vì tin tưởng nhau nên ngày 18/12/2009, bà NĐ_Nga và bà BĐ_Sang có lập hợp đồng hợp tác liên doanh (bà BĐ_Sang là chủ doanh nghiệp tư nhân Nguyễn Sanh) xây dựng chung cư 17 Củ Chi, phường VH, thành phố NT. Để hoàn thành hợp đồng này, từ ngày 15/12/2009 đến ngày 18/12/2009, bà NĐ_Nga đã chuyển cho bà BĐ_Sang tổng cộng số tiền 4.000.000.000đ (bốn tỷ đồng). Từ khi nhận được tiền, bà BĐ_Sang cố tình không thực hiện đúng theo các thỏa thuận đã ký kết trong hợp đồng. Nay bà NĐ_Nga yêu cầu bà BĐ_Sang phải trả lại cho bà tổng số tiền đã nhận là 6.500.000.000đ (sáu tỷ năm trăm triệu đồng) và lãi suất theo quy định của pháp luật.