1309/2014/DSPT: Đòi lại tài sản Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 2439
- 66
Theo đơn khởi kiện ngày 05 tháng 11 năm 2012 và lời khai tại tòa, nguyên đơn - bà NĐ_Võ Thùy Linh trình bày: Do quen biết nên khi bà BĐ_Nguyễn Thị Minh Hoa mượn 20.000.000.000đồng và hứa hẹn sẽ trả lại trong thời gian ngắn, ngày 20/5/2009 bà đã chuyển khoản cho bà BĐ_Hoa 16.730.000.000đồng thông qua Ngân hàng Thương mại cổ phần Phương Nam - Phòng giao dịch Nguyễn Duy Dương (sau đây gọi tắt là Ngân hàng Phương Nam – PGD Nguyễn Duy Dương) theo đề nghị của bà BĐ_Hoa (thời điểm này bà NĐ_Linh không có đủ 20.000.000.000đồng). Vì tin tưởng bà BĐ_Hoa nói cần vốn làm dự án kinh doanh và sẽ bán nhà, đất hoặc đưa tài sản trả nợ sớm nên bà không viết giấy, không yêu cầu trả lãi, hơn nữa đã có lưu phiếu chuyển tiền. Nhiều lần bà yêu cầu bà BĐ_Hoa trả nợ nhưng bà BĐ_Hoa né tránh không gặp mặt. Bà đã gửi thông báo đòi nợ bà BĐ_Hoa cũng không trả lời nên bà đã gửi đơn tố cáo hành vi chiếm đoạt tiền của bà BĐ_Hoa đến Phòng Cảnh sát Điều tra - Công an Thành phố HCM. Ngày 01/11/2012, Phòng Cảnh sát Điều tra - Công an Thành phố HCM gửi cho bà Phiếu hướng dẫn số 1344/HD-PC45 (Đ1) về việc hướng dẫn bà nộp đơn kiện bà BĐ_Hoa tại Toà án nhân dân Quận X, Thành phố HCM.
336/2014/DS-ST: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 399
- 3
Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Do cần vốn làm ăn nên ngày 01/10/2013, bà BĐ_Phan Thị Thủy có hỏi vay của bà số tiền 80.000.000 (tám mươi triệu) đồng và cùng ngày cả hai đã ra Phòng công chứng Đầm Sen (địa chỉ: 277 đường Minh Phụng, Phường 2, Quận T, Thành phố HCM) ký Hợp đồng vay tiền (theo Hợp đồng vay tiền số công chứng 00023891, quyển số 08, ngày 01/10/2013), thời hạn vay từ ngày 01/10/2013 đến ngày 24/12/2013, thỏa thuận lãi suất là 1,1%/tháng và ngay trong ngày ký hợp đồng, bà BĐ_Thủy đã nhận đủ số tiền 80.000.000 đồng. Nhưng từ khi nhận tiền, bà BĐ_Thủy chỉ trả cho bà được 1.000.000 (một triệu) đồng tiền lãi rồi ngưng luôn cho đến nay, mặc dù bà đã nhiều lần gọi điện thoại nhắc nhở, nhưng bà BĐ_Thủy vẫn không thực hiện.
1939/2016/HC-ST: Khiếu kiện Quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng Sơ thẩm Hành chính
- 1264
- 27
Khiếu kiện quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng
Theo đơn khởi kiện ngày 05/10/2011, Đơn xin thay đổi và bổ sung nội dung yêu cầu khởi kiện ngày 10/01/2016, bản tự khai và các biên bản đối thoại, Biên bản phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và đối thoại, người khởi kiện ông NĐ_Ngô Hoàng Tuấn và đại diện người khởi kiện – ông Ngô Hoàng Tuấn trình bày: Nguồn gốc đất căn nhà số 121 đường số 3, cư xá Thanh Đa, Phường 27, quận BT, Thành Phố HCM là đất của cha ông Tùng - ông Ngô Viết Tư khai phá, canh tác từ năm 1975 và làm nhà để ở vào năm 1976. Năm 1989-1990 khi các con lập gia đình, cha ông Tùng đã chia cho mỗi con một phần để ở, ông Tùng được chia 50,6 m2. Cha ông Tùng cùng gia đình đã ở trên diện tích đất này và sử dụng ổn định liên tục, không có tranh chấp đến ngày duyệt phương án bồi thường đoạn 1.4 ngày 19/4/2011 là đã 36 năm. Việc sử dụng đất đã được địa chính phường, Ủy ban nhân dân và công an Phường 27 quận BT xác nhận. Trong suốt quá trình sử dụng, gia đình ông Tùng không nhận được bất kỳ một thông báo hay văn bản ngăn chặn vi phạm lấn chiếm nào của cơ quan chính quyền các cấp và không vi phạm Khoản 4 Điều 14 Nghị định số 84/2007/NĐ-CP.
1698/2016/HC-ST: Khiếu kiện Quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng Sơ thẩm Hành chính
- 4275
- 49
Khiếu kiện quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng
Nguồn gốc đất căn nhà số 117 đường số 3, cư xá Thanh Đa, Phường 27, quận BT, Thành Phố HCM là đất của cha bà NĐ_Ngô Hà Phương Thư- ông Ngô Viết Tư khai phá, canh tác từ năm 1975 và làm nhà để ở vào năm 1976. Năm 1989-1990 khi các con lập gia đình, cha bà NĐ_Thư đã chia cho mỗi con một phần để ở, bà NĐ_Thư được chia khoảng 48 m2. Cha bà NĐ_Thư cùng gia đình đã ở trên diện tích đất này và sử dụng ổn định liên tục, không có tranh chấp đến ngày duyệt phương án bồi thường đoạn 1.4 ngày 19/4/2011 là đã 36 năm. Việc sử dụng đất đã được địa chính phường, Ủy ban nhân dân và công an Phường 27 quận BT xác nhận. Trong suốt quá trình sử dụng, gia đình bà NĐ_Thư không nhận được bất kỳ một thông báo hay văn bản ngăn chặn vi phạm lấn chiếm nào của cơ quan chính quyền các cấp và không vi phạm Khoản 4 Điều 14 Nghị định số 84/2007/NĐ-CP.
1762/2016/HC-ST: Khiếu kiện Quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng Sơ thẩm Hành chính
- 2177
- 39
Khiếu kiện quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng
Theo đơn khởi kiện ngày 10/9/2012, bản tự khai và các biên bản đối thoại, đại diện người khởi kiện – bà Cao Vân Trúc trình bày: Nguồn gốc đất căn nhà số 7/28 TĐ, Phường 27, quận BT, Thành Phố HCM của ông NĐ_Cao Văn Khánh và bà NĐ_Nguyễn Thị Hà là thuộc quyền sử dụng của ông Võ Thành Chơn. Ông Chơn là cán bộ thương binh thuộc diện chính sách được cấp và khai thác từ năm 1984 để trồng rau và tăng gia sản xuất nhưng giấy tờ về việc ông Chơn được cấp đất đã bị mất (theo đơn xin xác nhận ngày 05/03/1992 của ông Võ Thành Chơn có chữ ký xác nhận của lãnh đạo Ủy ban nhân dân phường 27 và trưởng ban tổ chức quận ủy quận BT thời Điểm đó).