320/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 440
- 24
Năm 1988, ông Thụ chết không để lại di chúc. Năm 1992, sau khi cải táng cho ông Thụ xong thì họ tộc đã yêu cầu bà về sống tại nhà đất của ông Thụ để nhang khói cho ông Thụ nên mẹ con bà đã quay lại thôn Khách và ở từ đó đến nay. Sau khi ông Thụ chết, bà BĐ_Ánh đã bán nhà đất ở HN và về sống tại nhà đất ở thôn Khách nhưng đến năm 1992 thì bỏ đi đâu không rõ. Khi lấy ông Thụ bà không nghe nói gì về việc ông Thụ nhận anh Lộc làm con nuôi nhưng năm 1981 anh Lộc dẫn vợ con về sống tại nhà đất của ông Thụ và nói là con nuôi của ông Thụ bà BĐ_Ánh. Khoảng 2 năm sau thi gia đình anh Lộc đi xây dựng kinh tế mới, nhà và đất lại do mẹ con bà quản lý.
318a/2012/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 360
- 13
Theo đơn khởi kiện ngày 15/7/2008 và trong quá trình giải quyết vụ án, ông NĐ_Chu Văn Minh cho rằng: Diện tích 8.491,9m2 đất tại thửa 05, khu đồi Pò Đút thuộc tổ 6, khối 9, thị trấn CL, huyện CL, tỉnh LS hiện đang tranh chấp với bà BĐ_Liên là của cha, mẹ ông để lại; trên đất có 200 cây thông. Năm 2002, ông Chu Văn Mòn đến tranh chấp với ông, UBND thị trấn CL đã giải quyết và có Quyết định số 188/QĐ-UB ngày 17/4/2002 giao cho ông quản lý, sử dụng diện tích trên. Năm 2006, bà BĐ_Liên tranh chấp với ông và cho rằng đất trên là của bà BĐ_Liên. Nay ông đề nghị Tòa án giải quyết công nhận ông có quyền sử dụng diện tích đất nêu trên.
181/2012/DS GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 534
- 12
Tranh chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất
Tại đơn khởi kiện đề ngày 16/6/2008 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là bà NĐ_Phạm Thị Hồng Nguyên trình bày: Cụ Phạm Ngọc Cầu và cụ Nguyễn Thị Ngọc Dung (là cha, mẹ của bà) có một ngôi nhà mái lá ba gian (hiện nay còn nền móng nhà), giếng nước, cây lâu năm, nằm trên diện tích 3.127m2 đất, thuộc thửa số 1004, tờ bản đồ số 32, tọa lạc tại Phú Xuân B, xã XP, huyện ĐX, tỉnh PY (khối tài sản này là của ông bà của bà để lại cho cha mẹ bà). Năm 1972 cụ Dung chết. Năm 1976 cụ Cầu chết. Vì bà đi công tác không có điều kiện canh tác sử dựng nên năm 1976 bà cho ông BĐ_Phạm Văn Tân (là người bà con trong họ) đến ở nhờ để trông coi giúp bà khối tài sản này (vì cha mẹ bà chỉ có một mình bà).
44/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 775
- 9
Cố Giản và cố Kiên chết để lại di sản gồm một căn nhà từ đường cấp 4 (diện tích 75m2) trên lô đất thổ diện tích sau khi mở đường còn 1.043,8m2 thuộc thửa 550 và 551 toạ lạc tại thôn Phú Thạnh, xã Vĩnh Thạnh, thành phố Nha Trang hiện do ông Vân quản lý nhà và phần lớn đất (cụ Mười và ông Nông làm nhà trên một phần đất cùng trong khuôn viên) và một lô đất màu dùng làm nghĩa địa diện tích 1.384m2 thuộc thửa 439 và 440 cũng tại thôn Phú Thạnh, hiện do ông Vân quản lý toàn bộ.
44/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 274
- 3
Cố Giản và cố Kiên chết để lại di sản gồm một căn nhà từ đường cấp 4 (diện tích 75m2) trên lô đất thổ diện tích sau khi mở đường còn 1.043,8m2 thuộc thửa 550 và 551 toạ lạc tại thôn Phú Thạnh, xã Vĩnh Thạnh, thành phố Nha Trang hiện do ông Vân quản lý nhà và phần lớn đất (cụ Mười và ông Nông làm nhà trên một phần đất cùng trong khuôn viên) và một lô đất màu dùng làm nghĩa địa diện tích 1.384m2 thuộc thửa 439 và 440 cũng tại thôn Phú Thạnh, hiện do ông Vân quản lý toàn bộ.