53/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 961
- 19
Năm 1980, ông và ông LQ_Võ Tấn Linh có nhận sang nhượng chung 01 mảnh đất của ông Huỳnh Ngọc Chẩm với diện tích 2.484m2. Sau đó, do ông LQ_Linh không có nhu cầu sử dụng nên đã sang nhượng lại phần đất của mình cho vợ chồng ông BĐ_Mai, bà BĐ_Ninh. Năm 1980, ông làm nhà; đến năm 1987 ông BĐ_Mai làm nhà. Ngày 09/12/1996, gia đình ông và gia đình bà BĐ_Ninh xảy ra tranh chấp với nhau về diện tích đất được chia. Vụ việc được chính quyền địa phương gồm có ông Đặng Quốc Toản, ông Nguyễn Phúc Ánh giải quyết và tiến hành đo đạc lại diện tích của các bên thì phát hiện phần đất được chia cho gia đình bà BĐ_Ninh là 1.350m2, dư 108m2. Gia đình bà BĐ_Ninh không những không trả cho gia đình ông phần đất dư mà gia đình ông còn phải để giành cho gia đình bà BĐ_Ninh một con đường đi (do đất gia đình bà BĐ_Ninh nằm ở phía trong, không có đường đi ra).
51/2014/DS-GĐT: Tranh chấp đòi di sản Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 539
- 3
Năm 1938, cụ Hoàng Ngọc Bách là cha đẻ của các đồng nguyên đơn có mua 01 căn nhà diện tích 36m2 trên diện tích đất 1.228m2 thuộc thửa 331, tờ bản đồ 05 tại thôn Hội Yên, xã HQ, huyện HL, tỉnh QT. Năm 1972, gia đình cụ Bách chuyển vào Đà Nẵng chạy giặc. Năm 1973, bà Hoàng Thị Bê quay về sinh sống tại địa chỉ trên cho đến năm 1975 bị tai nạn chết. Cuối tháng 8 năm 1975, Cụ Bách cho cháu là ông Hoàng Ngọc Thoan ở nhờ căn nhà trên, sau đó ông Thoan cho chị dâu là bà BĐ_Phạm Thị Hiếu đến ở còn mình chuyển vào miền Nam sinh sống. Từ năm 2003, các nguyên đơn đã yêu cầu bà BĐ_Hiếu trả lại tài sản trên, bà BĐ_Hiếu công nhận nhà và đất có nguồn gốc là của cụ Bách nhưng không chấp nhận trả lại. Nay các nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc bà BĐ_Hiếu trả lại di sản của cụ Bách và đồng ý hỗ trợ bà BĐ_Hiếu chuyển đến nơi khác 30.000.000 đồng.
49/2014/DS-GĐT: Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 431
- 7
Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
Khi cụ Minh và cụ Ba còn sống cho ông Lộc (là con trai của cụ Minh, cụ Ba) và bà Kim Cưong (là cha mẹ của các nguyên đơn) diện tích đất có chiều ngang 15m, dài từ hố Ben Siêu đến giáp ruộng ông Mầm (là một phần trong tổng diện tích đất nêu trên). Nhưng không lập giấy tờ. Ông Lộc, bà LQ_Kim Cần đã cất nhà ở tạm trên đất và hiện nay ngôi nhà đó vẫn còn. Ông Lộc, bà LQ_Cần có trồng cây bạch đàn, hiện chỉ còn 01 cây cặp vách nhà sau; sau đó vợ chồng ông BĐ_Sinh, bà BĐ_Phụng; ông Quí (là con của cụ Minh, cụ Ba) và bà LQ_Loan (là con của cụ Minh, cụ Ba) sử dụng diện tích đất này trồng số cây còn lại.
118/2010/DSPT: Tranh chấp quyền sở hữu nhà Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 557
- 10
Nguyên đơn trình bày: Ngày 20/12/1971 bà NĐ_Nguyễn Thị Tuấn ký hợp đồng mua của bà Phạm Thị Nghĩa căn nhà số 105 (có chứng thực của phường trưởng phường Chánh Hưng cùng ngày, trước bạ ngày 24/02/1972) và mua của bà Trần Thị Nga căn nhà số 107 (có chứng thực của phường trưởng phường Chánh Hưng cùng ngày, trước bạ ngày 26/02/1972) đường số 6 Phạm Thế Hiển phường Chánh Hưng quận T (cả 2 căn nhà này mang một số kép là 105-107 ĐCM, phường 4, quận T, thành phố HCM. Sau năm 1975 bà NĐ_Tuấn xuất cảnh sang Hoa Kỳ. Nhà đất trên do ông Nguyễn Kim Paul chồng bà NĐ_Tuấn quản lý, sử dụng.
385/2014/DS-GĐT: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 707
- 6
Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Nguyên đơn bà NĐ_Phan Thị Kiều, ông NĐ_Nguyễn Văn Hưng trình bày: Năm 2005 và năm 2006 Công ty TNHH Sản xuất-Thương mại-Dịch vụ Kiều Hưng do ông, bà làm chủ có thế chấp tài sản vay vốn tại Chi nhánh LQ_Ngân hàng An Thái huyện HT, tỉnh TN số tiền 8,3 tỉ đồng, sau đó có trả và còn nợ lại 6.750.000.000 đồng. Do kinh doanh thua lỗ, không có khả năng thanh toán nợ cho Ngân hàng. Khoảng tháng 10/2007 ông, bà đến thành phố HCM tìm nguồn vốn vay để trả nợ. ông, bà không quen biết ai, nhưng bà BĐ_Lê Thị Thanh Thư có bộ hồ sơ của Công ty và chủ động đến gặp ông, bà và cho rằng không thể vay được tiền vì Công ty đang nợ tiền và được đưa lên mạng, muốn vay phải sang tên Công ty lại cho bà BĐ_Thư và ký nhận nợ khống 9,5 tỉ đồng, bà BĐ_Thư có trách nhiệm trả nợ cho Công ty, sau khi trả nợ xong lấy tài sản thế chấp ra và đem về thành phố HCM thế chấp vay 20 tỉ đồng và thỏa thuận bà BĐ_Thư được hưởng hoa hồng 10% trên số tiền vay. Ông NĐ_Hưng, bà NĐ_Kiều đồng ý.