cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

455/2014/DS-GĐT: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 701
  • 6

Tranh chấp hợp đồng vay tài sản

21-11-2014

Tại đơn khởi kiện đề ngày 8/12/2008 và trong quá trình tố tụng, bà NĐ_Huỳnh Thị Ngọc Minh trình bày: Ngày 18/10/2007, bà BĐ_Trần Hồng Hiền có vay bà 250.000.000 đồng, lãi suất 3%/tháng, có làm giấy biên nhận, đến nay bà BĐ_Hiền chưa trả. Việc cho mượn tiền và viết giấy biên nhận tại nhà bà, không có ai làm chứng. Sau khi bà BĐ_Hiền viết giấy biên nhận thì bà giữ giấy, khi nhận thì trong giấy biên nhận đã bị tẩy xóa và do bà BĐ_Hiền xóa, lúc đó bà cũng không có ý kiến gì vì nghĩ có chữ ký trong biên nhận là đủ. Yêu cầu bà BĐ_Hiền trả 250.000.000 đồng tiền gốc và lãi theo quy định của nhà nước tính từ ngày khởi kiện cho đến nay.


411/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1043
  • 4

Tranh chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất

15-10-2014

Năm 1965 ông kết hôn với bà Phạm Thị Hường. Vợ chồng sinh được 4 con là: Sơn, Hiền, Thủy, Sâm. Cả gia đình sinh sống tại nhà đất của bố mẹ ông để lại tại Thôn 6, xã QP. Năm 1984 bà Hường chết, năm 1987 ông kết hôn với bà LQ_Nguyễn Thị Nga ở cùng thôn và về nhà bà LQ_Nga sống. Năm 1991 ông được UBND huyện QT cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích 500m2 trong đó 200m2 đất ở, 300m2 đất vườn thuộc thửa 886 tờ bản đồ 03 xã QP. Nhà đất trên do anh BĐ_Nguyễn Ngọc Sinh, BĐ_Nguyễn Xuân Thanh sử dụng. Khoảng tháng 3/2001, anh BĐ_Sinh nói với ông cho anh BĐ_Sinh mượn giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và ký giấy ủy quyền để anh BĐ_Sinh thế chấp vay tiền ngân hàng chữa bệnh cho vợ. Do không đọc nên ông đã ký, nhưng sau đó ông mới biết là anh BĐ_Sinh lừa ông để ký vào giấy chứng nhận cho con đất và anh BĐ_Sinh đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên. Ông đã có đơn đề nghị và năm 2009 UBND huyện QT đã ra quyết định hủy bỏ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của anh BĐ_Sinh và phục hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông. Nay ông khởi kiện yêu cầu anh BĐ_Sinh, anh Thủy phải trả lại nhà đất trên cho ông.


380/2014/DS-GĐT: Đòi lại nhà cho ở thuê Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1121
  • 7

Đòi lại nhà cho ở thuê

19-09-2014

Ngày 21/4/2009 ông đã mua nhà đất của chị BĐ_Hương tại số 33, ngách 23, ngõ 118, tổ 3, phường BĐ, quận LB. Khi mua hai bên đã lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại phòng công chứng số 1A Nguyễn Khánh Toàn, quận Cầu Giấy, thành phố HN. Theo nội dung hợp đồng nêu trên thì chị BĐ_Hương bán cho ông nhà và đất thuộc địa chỉ nêu trên. Đất có diện tích 24,76m2, trên đất có 01 nhà bê tông 2 tầng, diện tích xây dựng là 24,76m2 với giá 500.000.000 đồng. Nhà đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên bà BĐ_Chu Thị Hương. Sau khi lập hợp đồng xong bà BĐ_Hương cầm hợp đồng về, ông đã đến nhà giao đủ cho bà BĐ_Hương 500.000.000 đồng tại nhà bà BĐ_Hương và lấy lại hợp đồng, bà BĐ_Hương đã viết biên bản giao nhà. Sau đó bà BĐ_Hương đã hỏi xin thuê nhà trog vòng 3 tháng để bà tìm chỗ khác và ông đã đồng ý. Khi cho bà BĐ_Hương thuê hai bên đã lập hợp đồng thuê nhà. Hợp đồng thuê nhà lập cùng ngày với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất.


376/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 511
  • 4

Tranh chấp quyền sử dụng đất

18-09-2014

Nguồn gốc đất tranh chấp là ông, bà của bà để lại cho bà với diện tích 2.080m2 tọa lạc tại khóm 3, thị trấn CN, huyện CN, tỉnh CM. Phần đất này bà đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào năm 2003, khi ông bà để lại đất cho bà thì có đường mương chiều ngang mặt tiền 1,5m, chiều dài đến hậu 68m nằm trong quyền sử dụng đất do bà đứng tên với diện tích 2.080m2 (quyền sử dụng đất hiện nay không vay Ngân hàng). Bà không xác định phần đất chiều ngang mặt tiền và chiều ngang mặt hậu của bà là bao nhiêu, nhưng xác định phần ranh đất giữa bà và ông BĐ_Phấn mỗi người là ½ mương ranh. Vào khoảng năm 2001-2002 phía ông BĐ_Phấn có sên vuông để lắp đường mương lúc đó bà không có nhà. Khi bà về thì bà có hỏi ông BĐ_Phấn tại sao sên vuông mà đổ lên đất của bà, thì ông BĐ_Phấn trả lời là do đất nhiều quá không có chỗ đổ nên mới tràn qua mương ranh đất ông BĐ_Phấn và bà.


359/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 336
  • 3

Tranh chấp quyền sử dụng đất

16-09-2014

Theo bản án sơ thẩm thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Cụ NĐ_Bùi Thị Hoa khởi kiện đòi anh BĐ_Trần Văn Minh phải trả lại diện tích 120m2 đất trước năm 2001 là ao tại thửa số 237, tờ bản đồ số 29, loại đất lâu năm quả, bản đồ năm 2007 (bản đồ năm 2001 thể hiện tại thửa 51, tờ số 24) mang tên anh BĐ_Trần Văn Minh của xã ĐH, huyện KĐ, tỉnh HY. Quan điểm của cụ NĐ_Hoa xác định khoảng năm 1970 do sông lở không còn đất nên cụ đã sang thôn 6, xã ĐH mua lại đất của cụ Nguyễn Thị Khoản (cụ Khoản chuyển đi Tây Bắc nay đã chết), trong đó có cả phần đất (trước kia là ao) đang tranh chấp. Cụ NĐ_Hoa sử dụng đất và phần ao mua lại của cụ Khoản đến năm 2001, gia đình anh BĐ_Trần Văn Minh đổ đất san lấp lấn chiếm 2/3 ao với diện tích 120m2 xây tường bao giáp ngõ đi vào nhà. Cụ NĐ_Hoa đã đề nghị với cơ sở thôn để hòa giải yêu cầu anh BĐ_Minh không được đổ đất, nhưng anh Manh vẫn cố tình lấn chiếm.