1970/2016/LĐ-ST: Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (Người lao động) Sơ thẩm Lao động
- 1388
- 32
Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (Người lao động)
Theo đơn khởi kiện, tại bản tự khai, các biên bản hòa giải và tại phiên tòa nguyên đơn bà NĐ_Nguyễn Hồ Uyên Tú trình bày: Bà vào làm việc tại BĐ_Công ty Cổ phần Đầu tư và Xây dựng Minh Khang (sau đây gọi tắt là BĐ_Công ty Minh Khang) từ ngày 15/8/2009 đến ngày 04/6/2014 với chức danh Trưởng bộ phận Tổ chức hành chính. Hai bên có ký kết hợp đồng lao động có thời hạn 02 lần, lần 1 ngày 01/9/2010 ký Hợp đồng lao động số 50/10/HĐLĐ thời hạn 01 năm. Lần 2, Ngày 01/9/2011 ký Hợp đồng lao động số 32/11/HĐLĐ thời hạn là 03 năm. Ngày 27/8/2013, bà nhận được Thông báo số 215/TB-TCHC của BĐ_Công ty Minh Khang về việc tạm ngưng công việc được giao đối với bà. Bà đã gửi đơn hỏi lý do tạm ngưng công việc của bà nhưng phía Công ty không có văn bản trả lời. Trong suốt thời gian 09 tháng tạm ngưng công việc Công ty không chi trả bất kỳ khoản tiền lương nào cho bà.
1876/2016/LĐ-ST: Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (Người sử dụng lao động) Sơ thẩm Lao động
- 748
- 27
Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (Người sử dụng lao động)
Theo đơn khởi kiện, tại bản tự khai, các biên bản hòa giải và tại phiên tòa nguyên đơn ông NĐ_Nguyễn Ngọc Nhung trình bày: Ông và BĐ_Công ty Cổ phần Ân Lan (tên cũ Công ty Cổ phần Tân Thành Đô City Ford) có ký 02 Hợp đồng lao động xác định thời hạn 01 năm, hợp đồng thứ nhất từ ngày 01/7/2009 đến ngày 01/7/2010 và hợp đồng thứ hai từ ngày 01/7/2010 đến ngày 01/7/2011, với chức danh Trưởng Phòng hành chính nhân sự. Mức lương theo thỏa thuận là 8.100.000đ/tháng, mức lương trong hợp đồng lao động là 4.740.000đ/tháng. Khi kết thúc thời hạn của hợp đồng lao động lần hai, ông NĐ_Nhung vẫn tiếp tục làm việc tại Công ty nên hợp đồng lao động giữa ông và BĐ_Công ty Cổ phần Ân Lan được chuyển sang loại hợp đồng lao động không xác định thời hạn, vẫn với chức danh và mức lương như trên.
22/2016/ST-LĐ: Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (Người sử dụng lao động) Sơ thẩm Lao động
- 2468
- 80
Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (Người sử dụng lao động)
Trong đơn khởi kiện ngày 01/7/2015, biên bản hòa giải và tại phiên tòa nguyên đơn ông NĐ_Trần Đắc Tú trình bày: Tháng 11/2010, ông NĐ_Tú được nhận vào làm việc tại BĐ_Trung tâm dạy nghề quận TP (sau đây gọi tắt là Trung tâm). Ông NĐ_Tú và Trung tâm đã ký với nhau liên tiếp 04 hợp đồng lao động xác định thời hạn là 12 tháng từ ngày 01/11/2010 đến ngày 31/12/2014 với công việc là nhân viên bảo vệ. Hợp đồng lao động thứ nhất với mức lương của ông NĐ_Tú là 1.400.000 (một triệu bốn trăm nghìn) đồng/tháng, ba hợp đồng lao động tiếp theo với mức lương là 1.800.000 (một triệu tám trăm nghìn) đồng/tháng.
2122/2016/DS-ST: Tranh chấp hợp đồng thuê nhà Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 2247
- 41
Ngày 29/12/2010, NĐ_Công ty phát triển nhà Thánh An (nay là NĐ_Công ty TNHH một thành viên Địa ốc Thánh An) có ký với bà BĐ_Nguyễn Thị Hoa Hợp đồng cho thuê nhà số 214/HĐTN-PTN để cho bà Hạnh thuê căn hộ 104, tầng 2 (lầu 1) Khu tạm cư NTL, phường 13, quận BT, với giá thuê là 1.177.000 (một triệu một trăm bảy mươi bảy ngàn) đồng/tháng, ngày nhận bàn giao nhà là ngày 31/12/2010, thời hạn hợp đồng từ ngày 31/12/2010 đến ngày 30/6/2011. Khi đôi bên ký hợp đồng thuê nhà thì bà Hạnh có đặt cọc cho Công ty số tiền là 2.354.000 (hai triệu ba trăm năm mươi bốn ngàn) đồng tương đương với 02 (hai) tháng tiền thuê nhà. Sau đó bà Hạnh đã thanh toán cho Công ty được 01 tháng tiền thuê nhà từ ngày 30/12/2010 đến 30/01/2011 là 1.177.000 (một triệu một trăm bảy mươi bảy ngàn) đồng. Từ ngày 01/02/2011, bà Hạnh đã ngưng không thanh toán tiền thuê nhà cho Công ty cho đến nay.
2056/2016/DS-ST: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 661
- 24
Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Năm 2010 ông NĐ_Nguyễn Văn Tân và bà Đặng Thị Oanh cho vợ chồng ông BĐ_Nguyễn Thành Vân và bà BĐ_Nguyễn Thị Thanh vay tổng cộng 350.000.000 (ba trăm năm mươi triệu) đồng (ngày 08/5/2010 vay 300.000.000 đồng, ngày 20/9/2010 vay 50.000.000 đồng), lãi suất thỏa thuận 18%/năm, không ghi thời hạn vay, khi nào cần lấy lại tiền thì ông NĐ_Tân, bà Oanh báo cho ông BĐ_Vân và bà BĐ_Thanh trước 15 ngày. Đến ngày 22/11/2011, bà Đặng Thị Oanh qua đời và do cần tiền để trị bệnh nên ông BĐ_Vân yêu cầu ông BĐ_Vân và bà BĐ_Thanh trả lại số tiền 350.000.000 đồng nhưng ông BĐ_Vân và bà BĐ_Thanh không đồng ý. Vì thế vào tháng 7/2012 ông làm đơn gửi Ủy ban nhân dân phường 3 quận BT giải quyết nhưng ông BĐ_Vân và bà BĐ_Thanh vẫn không có thiện chí trả nợ. Nay ông BĐ_Vânêu cầu ông BĐ_Vân và bà BĐ_Thanh phải trả cho ông số tiền đã vay là 350.000.000 đồng và tiền lãi của số tiền này là 43.200.000 đồng, tổng cộng 393.200.000 đồng.