799 /2013/DSPT: Yêu cầu hủy hợp đồng mua bán nhà Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1054
- 14
Yêu cầu hủy hợp đồng mua bán nhà
Bị đơn ông BĐ_Nguyễn Định Thức và bà Đòan Thị Mai trình bày: Khoảng tháng 8 năm 2008 vợ chồng ông, bà có thỏa thuận bán cho vọ chồng ông LQ_Châu, bà NĐ_Như phần đất phía sau nhà diện tích 180 m2 với giá 430.000.000 đồng (Bốn trăm ba mươi triệu đồng), phần đất này chưa có giấy chủ quyền. Đôi bên thỏa thuận sau ban năm định giá đất theo giá thị trường ông, bà sẽ thanh toán lại cho bà NĐ_Như giá trị đất, nếu không có khả năng thanh toán được thì bà NĐ_Như được toàn quyền quyết định đối với phần diện tích đất nêu trên. Theo yêu cầu của bà NĐ_Như, bà NĐ_Như không thể xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần diện tích đất này nên yêu cầu ông bà sang tên căn nhà số 1047/14, Tỉnh lộ M, khu phố 2, phường BC, quận TĐ, thành phố HCM cho bà NĐ_Như để bà yên tâm, đồng thời bà NĐ_Như cho ông bà vay số tiền 300.000.000 đồng (ba trăm triệu) đồng, cho vay không tính lãi, ba năm sau ông bà sẽ trả lại số tiền này cho bà NĐ_Như và bà NĐ_Như sẽ làm thủ tục sang tên lại căn nhà trên cho vợ chồng bán nhà theo hình thức, thực tế là chuyển nhượng phần đất 180m 2 phía sau căn nhà và vay thêm của bà NĐ_Như 300.000.000 đồng (ba trăm triệu đồng).
799 /2013/DSPT: Đòi lại nhà cho ở nhờ Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 499
- 13
Ngày 12/11/2008 vợ chồng bà NĐ_Hồ Ngọc Như, ông LQ_Nguyễn Phương Châu có làm hợp đồng mua bán với ông BĐ_Nguyễn Định Thức, bà BĐ_Đoàn Thị My căn nhà số 1047/14 Tỉnh lộ M, khu phố 2, phường BC, quận TĐ, thành phố HCM, diện tích 200 m 2, trong đó nhà ở có diện tích sàn là: 132,1m2, có kết cấu nhà: Tường gạch, mái tôn với giá 100.000.000 đồng (Một trăm triệu đồng), nhưng thực tế giá mua bán là 740.000.000 đồng tại LQ_Phòng công chứng N-thành phố HCM theo hợp đồng mua bán nhà ở số 26979/HĐ-MBN ngày 12/11/2008. Bà NĐ_Như đã hoàn tất hồ sơ sang tên giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở ngày 26/11/2008 theo hồ sơ số 7641/2008/GCN ngày 26/11/2008 đứng tên bà và chồng là ông LQ_Nguyễn Phương Châu.
63/2013/DSPT: Tranh chấp hợp đồng mua bán thức ăn gia súc Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 987
- 3
Tranh chấp hợp đồng mua bán thức ăn gia súc
Theo nguyên đơn ông NĐ_Lê Văn Nghĩa trình bày: ông có bán thúc ăn nuôi heo cho anh BĐ_Kiều Đài Riêng từ năm 2009 đến năm 2011 rất nhiều lần theo hình thức bán chịu, anh BĐ_Riêng nợ tiền ngày càng nhiều nên đến ngày 08 tháng 3 năm 2009 ông và anh BĐ_Riêng tổng kết nợ và thống nhất anh BĐ_Riêng còn nợ ông số tiền 270.000.000đ và chịu lãi suất là 1%/tháng. Số tiền này bỏ riêng một bên, kể từ đây trở về sau anh BĐ_Riêng nhận toa hàng nào thì phải trả tiền toa hàng đó hoặc chỉ cho nợ gối đầu một cử.
74/2013/DS-PT: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 783
- 13
Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Theo đơn khởi kiện ngày 02/7/2012, đơn khởi kiện bổ sung ngày 28/9/2012, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn ông NĐ_Kim Thành Lâm trình bày: Vào khoảng giữa năm 1989, bà Võ Thị Thạch là mẹ của ông BĐ_LQ_Đỗ Văn Thịnh có bán cho tôi diện tích đất 1.750 m2 tại thửa đất 558 giá là 19 chỉ vàng 24K, anh BĐ_Thắng có ra lấy 07 chỉ vàng 24 K. Hai tháng sau vợ tôi là NĐ_Lê Thị Bé Tâm có đưa cho vợ anh BĐ_Thắng 10 chỉ vàng, còn 02 chỉ còn lại khoảng vài tháng sau đưa cho bà Thạch. Sau đó, khoảng hơn 10 ngày bà Thạch có mang giấy tay “tờ nhượng đất ruộng” qua cho vợ chồng tôi, tôi không biết giấy đó do ai viết và tôi đã cất giữ giấy đó cho đến nay. Cũng vào thời điểm năm 1989 tôi cũng có mua một phần đất của ông Đỗ Văn Tư là anh ruột của ông BĐ_Thắng (do bà Thạch đứng ra bán dùm ông Tư) diện tích 1.250 m2 với giá là khoảng 05 - 07 chỉ vàng 24K.
26/2014/HC-GĐT: Khiếu kiện quyết định hành chính về việc thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Hành chính
- 980
- 21
Khiếu kiện quyết định hành chính về việc thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Theo Kháng nghị số 30/QĐKNGĐT-V12 ngày 28/11/2013 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã nêu: Ngày 26/9/2001, ông LQ_Nguyễn Văn Chu thỏa thuận chuyển nhượng cho bà NĐ_Nguyên lô đất do ông LQ_Chu đứng tên trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00025 QSDĐ ngày 12/3/1998, tại thửa đất số 56, tờ bản đồ số 1, có diện tích 4.975 m2. Ngày 02/4/2002, bà được UBND thành phố CT cũ chấp nhận cấp cho bà 02 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: số 05564, thửa số 172, tờ bản đồ số 36 có diện tích 1.656m2 và số 05565, thửa 101, tờ bản đồ số 36 có diện tích 3.319m2. Bà đã hoàn thành nghĩa vụ tài chính và đóng thuế sử dụng đất nhưng LQ_Công ty phát triển và kinh doanh nhà thành phố CT lại bồi thường tiền thu hồi đất cho ông LQ_Chu vào ngày 03/5/2002 và phân chia phần đất này thành 31 lô để bán nền nhà cho các hộ dân khác gây thiệt hại quyền lợi của bà nên bà liên tục khiếu nại đến các cấp chính quyền.